BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Trên đường hoằng pháp của Phật tổ Gotama

Trùng-Quang Nguyễn Văn Hiểu


 

M. Ðức-Phật ngự đến Vesali

149- Ðức-Phật còn ngự đến xứ nào khác chăng?

Một đoạn lịch-sử nói về cuộc châu-du của Ðức-Phật tại xứ Licchavi, nhưng không ghi rỏ vào thời kỳ nào. Xứ Licchavi ở vào hướng Bắc xứ Magadha, thuộc quyền cai-trị của nhiều vị Tiểu-vương; kinh-đô là thành Vesali (Tỳ-đa-ly), nằm trên tã-ngạn sông Găng (bên hữu-ngạn là thành Pataliputta, kinh-đô mới của xứ Magadha), rất giàu-có thạnh-mậu. Nơi đây hiện-giờ còn nhiều di-tích của Ðức-Phật, nhất là thạch-trụ của vua A-Dục.

Tục truyền rằng trong kiếp chót, tiền-thân của Ðức-Phật đã sanh-trưởng tại Vesali và Bồ-tát có thọ-giáo với thầy Ðạo-sĩ Arãdã Kãlãma. Kiếp này, sau khi thành Phật, Ngài được thỉnh đến Vesali tẩy-trừ một bệnh dịch-khí đã giết hại rất nhiều dân chúng. Thuở ấy, cũng như hiện giờ ở khắp thôn-quê, ôn-binh tà-quái là vi-trùng của bệnh dịch. Khi Ðức-Phật được thỉnh đến Vesali, Ngài sai Ðại-Ðức Ananda tới trước, trọn ba canh, đi ba vòng thành, tụng Ân-đức của Phật-Pháp Tăng, cho Chư-Thiên và dân chúng phát-tâm trong sạch, hướng về Ba Ngôi quí-báu, cải-ác tùng-thiện, đem lòng Từ-bi thương xót lẫn nhau. Nhờ oai-lực Tam-Bảo và lòng từ-thiện phát-sanh trong từng lớp dân-chúng mà thành Vesali trở lại bình-an và phồn-thịnh như xưa.

Ðể tỏ lòng sùng-kính Ðức-Phật, các vị Tiểu-vương xứ Licchavi dâng cho Ngài một vuông rừng, nằm về hướng Bắc thành Vesali. Chính nơi đây Bà kế-mẫu Gotami của Ðức-Phật đến yêu-cầu nhiều lượt xin cho hàng phụ-nữ xuất-gia làm Tỳ-Khưu-ni. Cũng tại Vesali, Bà đ?c Ðạo-Quả A-La-Hán và Niết-Bàn.

Theo lịch-sử, Ðức-Phật đến viếng Vesali hai lượt.

Thuở ấy, tại thành này có nàng kỳ-nữ tên Ambapãlĩ, đẹp-đẻ, yêu-kiều, màu da tuyệt-mỹ, có thiên-tài về ca-xướng nhạc-vũ, khiến cho hàng Vương-tôn Công-tử tứ phương đến tìm mua vui với nàng. Chính nhờ nàng mà thành Vesali càng ngày trở nên hào-hoa lộng-lẫy.

Các vị Tiểu-vương Licchavi tướng mạo oai-phong lẫm-liệt ăn-mặc rất sang trong; bọn tùy-tùng cũng vận sắc-phục lộng-lẩy.

Mỗi khi các Vị Tiểu-vương Vesali đến yết-kiến Ðức-Phật, từ xa thấy họ đến, Ngài thường nói với các vị Tỳ-Khưu:" Thầy nào chưa từng thấy 33 Vị Trời ở cung Ðạo-Lợi, nên dòm các vị Tiểu-vương kia kìa". Các Vị Tiểu-vương này và nàng Ambapãlĩ thường tranh nhau thỉnh Ðức-Phật về nhà thọ thực. Ngày nọ, nàng Ambapãlĩ đến thỉnh Ðức-Phật, trên đường về gặp xe-giá các vị Tiểu-vương , nàng khoe rằng:" Tâu cùng Chư Ðại-Vương, thiếp rất hân-hạnh được Ðức Thế-Tôn và Chư-Tăng nhậm lời ngày mai đến thọ trai-tăng tại tệ-xá".

Các Vị Tiểu-vương cũng tính vào Tịnh-Xá thỉnh Ðức-Phật, nghe vậy mới đề-nghị rằng:

-"Này cô Ambapãlĩ, cô nhường buổi trai-tăng ấy cho chúng tôi đi; chúng tôi sẽ chịu cho cô 1.000 đồng".

Nàng Ambapãlĩ đáp lại:

-"Xin Quí Ngài tha-thứ cho, dầu Quí Ngài cho trọn cả thành Vesali, thiếp cũng không thể hồi bửa trai-tăng ấy để nhường lại cho Quí ngài".

Các vị Tiểu-vương thất-vọng, búng-tay nói:

-"Quả thật chúng ta bị thua một người đàn-bà yếu-nhược".

Sau buổi trai-tăng này, nàng Ambapãlĩ dâng cho Ðức-Phật một vườn xoài, trong ấy có cất một vọng-tháp tốt đẹp, nằm về hướng Ðông-Bắc thành Vesali.

 

N. Ðức-Phật sang qua thành Rajagaha

150- Từ Vesali Ðức-Phật còn đi đâu nữa?

Qua mùa thu, Ðức-Phật trở lại Rajagaha, cư ngụ nơi vườn xoài của Ông Jĩvaka (Ngự-y của vua Bimbisara), dưới chân núi Kỳ-xà-Quật. Tình hình xứ Magadha lúc bấy giờ đã thay đổi, không còn ảnh-hưởng xấu-xa của thầy Devadatta. Vua Ajãtasattu (A-xà-Thế) bị lương tâm cắn rứt vì tội giết cha cướp ngôi, rất hối-hận và lo sợ ngày sau con mình là Hoàng-tử Udayibhadda lớn lên sẽ giết trở lại mình.

Một đêm nọ, dưới ánh trăng thu, vua A-xà-Thế ngự cùng các quan trên nóc lầu bằng để thưởng-nguyệt; cảm thấy trong lòng nao nao buồn thảm, thở ra và định-ý đi tìm một vị Bà-La-Môn cùng vị Sa-Môn nào để tỏ-bày tâm-sự, cầu xin chỉ dạy một đường lối nào cho cõi lòng được thơ-thới an-tịnh.

Các vị đại-thần đề-nghị đi viếng sáu Ðạo-sĩ, giáo-chủ của phái Lục-sư; nhưng vua A-Xà-Thế đã dư biết trình-độ của họ nên không nhận lời. Riêng ông Jĩvaka, là vị cựu-thần, ngồi làm thinh; chờ Vua phán hỏi, ông liền khuyên Vua nên đi yết-kiến Ðức-Phật, đương-ngự tại vườn xoài của ông với 1.200 vị Tỳ-Khưu: "Tâu Ðại-Vương, nếu Ðại-Vương gặp được Ðức Thế-Tôn, ắt Ðại-Vương sẽ cởi mở được những nổi khổ trong lòng". Ðức vua liền nhận lời, truyền-lệnh thắng voi cùng đi với Cung-phi và triều-thần đến tịnh-xá của Ông Jĩvaka. Ðường-sá quanh co theo triền núi, càng vô sâu chừng nào càng thấy quang-cảnh vắng lặng rùng-rợn. Ðức vua sanh nghi, phát run-sợ tự hỏi: Phải chăng Ông Jĩvaka muốn gạt trẫm vào sào-huyệt để hại trẫm? Dầu là ở giữa rừng núi, nhưng gần nơi cu-hội của trên cả ngàn người, mà sao không có một chút ồn-ào, khua-động, cho đến một tiếng ho-khạc cũng không nghe. Ông Jĩvaka đoán biết, nên đến gần trấn-tỉnh Ðức vua và trỏ-tay chỉ nơi xa xa phía trước có lập lòe ánh đèn, từ trong ngôi nhà tròn lớn mà ông đã cất để làm giảng-đường cho Ðức-Phật thuyết-pháp dạy đạo hằng ngày.

Vua đến nơi được Ðức-Phật ân-cần tiếp-rước. Sau khi lễ bái Ðức Thế-Tôn, Vua A-Xà-Thế xin phép hỏi một câu, chưa ai từng nghe, để mở đường sang qua mục-đích của sự viếng thăm hôm nay: "Bạch Ðức Thế-Tôn, xin Ðức Thế-Tôn hoan-hỷ giải cho trẫm cùng bá-quan có mặt nơi đây những diều lợi-ích lớn nhỏ mà người ly-gia thoát-tục có thể thu-hoạch được trong phạm-hạnh của bậc xuất- gia".

Ðức-Phật vui-vẻ thuyết nhiều pháp về phạm-hạnh của bậc xuất-gia, từ sự lợi-ích của tư-cách ăn mặc, đi đứng, nằm ngồi, chuyện vản, suy-tưởng cho đến những sự lợi-ích về tư-cách thu-thúc lục-căn, chế-ngự dục-vọng, gìn-giữ lòng an-tịnh, khai-thông Trí-Tuệ, chứng-ngộ chân-lý, tận-diệt Vô-Minh, siêu thoát luân-hồi. Rồi Ðức-Phật hỏi: "Ví như Ðại-vương có một người bộ-hạ đã xuất-gia thực-hành đúng theo phạm-hạnh như thế. Ðại-vương có thể nào muốn cho người ấy trở lại làm bộ-hạ để chìu-lụy phục-vụ Ðại-vương chăng?" Bạch Ðức Thế-Tôn, nếu người bộ-hạ của trẫm đã xuất-gia tu-hành đúng-đắn theo phạm-hạnh, trẫm sẽ nghiêng mình chào hỏi, mời ngồi và cúng-dường y-phục, vật-thực, chỗ ở, thuốc-men và cam-đoan sẽ bảo-hộ, che-chở cho xứng đáng theo bậc có đầy-đủ phạm-hạnh.

Sau khi thỏa-mản hiếu-kỳ của Vua A-Xà-Thế, Ðức-Phật lần lần khôn khéo mở đường cho người đương nặng-mang trọng-tội giết cha, gieo sâu đức-tin trong Phật-Pháp, phát-tâm vui thích muốn vào gần ngôi Tam-Bảo, để tìm phương giải lấy oan-nghiệp.

Vua A-Xà-Thế rất thỏa-thích, liền xin qui-y làm người cận-sự nam và tỏ lời sám-hối: "Bạch Ðức Thế-Tôn, trong cơn điên-dại, mù-quáng vì tham muốn ngôi vua, đệ-tử đã phạm tội sát-phụ; cúi xin Ðức Thế-Tôn nhận lời thú-tội của đệ-tử, hầu từ nay về sau đệ-tử ăn-năn cải-hối, không còn tái-phạm trong tội-ác nữa".

Ðức-Phật đáp: "Tâu Ðại-vương, thật vậy, do một oan-trái ác-nghiệt trong tiền-kiếp, Ðại-vương đã gây ra trọng tội thảm-khốc, hôm nay Ðại-vương đã thú-nhận và hối-ngộ ăn-năn, Như-Lai hoan-hỷ chứng-minh cho Ðại-vương. Tâu Ðại-vương, chính đó là quan-điểm của một kỷ-luật cao-thượng, dành để cho người biết nhìn nhận tội-lỗi, tỏ dấu ăn-năn, hầu diệt mầm oan-trái trong ngày vị-lai".

Vua A-Xà-Thế cảm thấy lòng được nhẹ-nhàng thơ-thới, hết sức vui-mừng, liền bái-tạ Ðức-Phật trở về hoàng-cung.

151- Tại sao Ðức-Phật không cứu-độ Vua Bimbĩsara, là người có công giúp cho Phật-Giáo được thạnh-hành trong xứ Magadha, cũng không tế-độ Hoàng-tử Ajatasattu, để tránh tội giết cha, cũng như Ngài đã độ tướng-cướp Angulimala khỏi tội giết mẹ?

Thật vậy, Vua Bimbisara, cũng như Vua Pasenadi xứ Kosala, là một vị quốc-vương đồng tuổi với Ðức-Phật, thông hiểu Phật-Pháp, tinh-tấn giử đạo với Ðức-Phật từ buổi khai-đạo; lẽ thì Ðức-Phật đã tìm mọi phương-thế cứu độ cho khỏi bị Thái-tử A-Xà-Thế phê-ngôi, hạ-ngục, không cho ăn uống cho đến bỏ-mình trong ngục-thất. Nhưng vì bởi oan-trái của vua Bimbisara đã gây ra trong tiền-kiếp với Thái-tử A-xà-Thế, nay đúng giờ phút phải trả quả đền tội; Ðức-Phật không thể sửa đổi luật nhân-quả, đành cam chịu mất một người tín-đồ nhiệt-thành và cũng là người bạn thân-mến. Tuy nhiên Ðức-Phật đã độ vua Bimbisara (Tần-Bà-Sa) chấm đứt oan-nghiệp và tiến bước khá sâu vào đường giải-thoát: Khi Thái-tử A-Xà-Thế nghe lời thầy Devadatta, mang gươm vào cung-nội, tính hạ-sát vua cha, bị bại-lộ, vua đã không bắt tội, lại còn nhường ngôi cho Thái-tử. Ðược tức-vị rồi, vua A-Xà-Thế cũng còn nghe lời thầy Devadatta, hạ-ngục vua cha, bỏ đói đến chết cho thầy rãnh tay hạ-sát Ðức-Phật. Trong ngục-thất, vua Tần-Bà-Sa nhờ biết đạo, không oán-giận con, cam lòng chịu trả cho dứt mối oan-nghiệt tiền-khiên, nên khi qua-đời được siêu-thoát về cỏi yên-vui.

Cũng vì oan-trái mà nghiệp-lực đưa đẩy Thái-tử A-Xà-Thế sanh làm con Vua Bimbisara, chờ đúng giờ khắc, ác-tâm phát-sanh, hết biết tình cha nghĩa con, hành-động mù-quáng của Thái-tử giúp cho mối thù xưa thực-hiện, y theo quả-báo mà hai bên đã cố tâm gieo trồng.

Chớ chi Thái-tử A-Xà-Thế theo một đường lối với Vua-cha, thông-hiểu được Phật-Pháp, biết luật nhân-quả tự mình biết sửa đổi nghiệp-lực của mình, không làm bạn với kẻ ác Devadatta, thì chẳng những Ðức-Phật có thể cứu-độ khỏi tội giết-cha, lại còn dìu-dắt Thái-tử trên đường Thánh-đạo. Cho nên sau khi Vua A-Xà-Thế nghe pháp, qui-y và sám-hối tội lỗi, Ðức-Phật liền bày tỏ cho các thầy Tỳ-Khưu biết rằng, mặc dầu Ðức vua đã thành-thật ăn-năn, nhưng nếu không có cái trọng tội sát-phụ, thì đã được chứng-ngộ chân-lý (đắc quả Thánh) giữa lúc Ngài thuyết-pháp cho nghe.

Tướng cướp Angulimala và Vua Ajatasattu ở trong hai hoàn-cảnh khác nhau; người trước là kẻ mới vay nợ; người sau là chủ-nợ đến đòi lời vốn. Angulimala phạm tội giết người, quả-báo chưa phát sanh kịp thời, nhờ hiểu Phật-Pháp, tự mình sửa đổi đường hướng phát-triển tinh-thần, để tiến đạo quả Niết-Bàn.

152- Sau khi qui-y, Vua Ajatasattu đối xử với Ðức-Phật như thế nào?

Vua A-Xà-Thế hết lòng tôn-kính và tin-tưởng Ðức-Phật, như Vua-cha khi trước. Mỗi khi triều-đình có việc quan-trọng phải giải-quyết, Vua thường đến thỉnh-giáo Ðức Thế-Tôn.

Một ngày nọ, Vua A-Xà-Thế sanh lòng tham, muốn đem binh chiếm xứ Videha, bên tã-ngạn sông Găng, thuộc của bên ngoại, để tiện bề chinh-phục cã vùng kế-cận rất giàu-có thịnh-mậu của dòng VajjisLicchavis. Vua bèn phái vị Ðại-thần Vassakara đến núi Kỳ-Xà-Quật đem lời khôn-khéo dọ hỏi ý-kiến Ðức-Phật về mưu-chước nói trên.

Khi nghe vị Ðại-thần Vassakara dỉ-hơi về ý-định xăm-lăng của Vua A-Xà-Thế, Ðức-Phật liền bắt qua nói chuyện khác với Ðại-Ðức Ananda để giáng-tiếp trả lời cho vị khách của Ngài:

"Này Ananda, ngươi có nghe dân-tộc Vajjis đối xử với nhau bằng cách nào mà xứ-sở họ được hùng-mạnh giàu-có chăng? "

-"Bạch Ðức Thế-Tôn, đệ-tử thường nghe rằng người Vajjis, từ bậc Vua-chúa đến hàng thứ dân đều áp-dụng chánh-sách rất khôn-ngoan, để bảo-tồn vĩnh-viển bờ cõi và sự phồn-thịnh của họ".

"Thật vậy Ananda, dòng Vajjis có lập bảy nguyên-tắc căn bản để duy-trì đất-đai và sự giàu có cho xứ sở họ:

- Thường nhóm-họp nhau để giải-quyết những vấn-đề lợi-ích cho quốc-gia dân-tộc.
- Ðoàn-kết hòa-thuận với nhau.
- Thi hành đúng theo luật-pháp chế-định.
- Tôn-kính bậc Trưởng-thượng.
- Kính-nể hàng phụ-nữ.
- Bảo-tồn các đền-thờ trong xứ.
- Sùng-bái các bậc Thánh-nhân".

Nhờ áp-dụng trung-thành bảy nguyên-tắc ấy,mà chẳng có cuộc ngoại-xâm nào thắng họ được.

Vị sứ-giả Vassakara, già-dặn về môn chánh-trị, tiếp lời kết-luận: Nếu quả thật vậy thì chẳng nên mạo-hiểm xâm-chiếm đất-đai của dòng Vajjis. Còn muốn thắng họ, thì trước nhất phải tìm cách làm cho họ chia rẻ, thù ghét lẫn nhau. Dứt lời, ông bái-tạ kiếu-từ Ðức-Phật và hứa khi rảnh việc sẽ trở lại thỉnh-giáo cầu-đạo. Trên đường về, Ông Vassakara lập tâm phá-rối sự đoàn-kết của dân xứ Vajjis.

Khi Sứ-giả Vassakara vừa xuống núi Kỳ-Xà-Quật, Ðức-Phật hội Chư-Tăng lại, dạy Bảy pháp cần-thiết để duy-trì Giáo-hội cho được lâu dài:

- Các thầy Tỳ-Khưu phải sống một đời-sống tập-đoàn và thường hội-họp để học hỏi cùng nhau.
- Các thầy Tỳ-Khưu luôn luôn phải hòa-hảo trong đời sống tập-đoàn, trong lúc hội-họp và trong khi hành Tăng-sự.
- Các thầy Tỳ-Khưu chẳng nên sửa-đổi hoặc phế-bỏ các điều-học, mà phải nghiêm-trì cho đầy-đủ.
- Các thầy Tỳ-Khưu phải tôn-kính và vâng-lời các bậc trưởng-lảo có nhiều kinh-nghiệm.
- Các thầy Tỳ-Khưu không nên để cho lòng tham-muốn chi-phối.
- Các thầy Tỳ-Khưu phải vui-thích nơi thanh-vắng.
- Các thầy Tỳ-Khưu phải biết tự-chủ, biết dìu-dắt đàn em có tài-đức, đến chổ an-vui hạnh-phúc.

 

O. Ðức-Phật sang qua thành Vesali

153- Ðức-Phật còn châu-du nơi nào khác chăng?

Sau khi ở Rajagaha (Vương-xá) một thời gian khá lâu, Ðức-Phật và đoàn tùy-tùng lên đường trở lại Vesali.

Chặng đầu, Ngài ghé vào vườn xoài Ambalatthika của vua A-Xà-Thế, là nơi Ngài đã đến hai lần, để thuyết-pháp nhắc-nhở tín-đồ nông-trang tu-hành.

Kế đó, Ðức-Phật ngự đến làng Nalanda, chỗ sanh-đẻ của Ðại-Ðức Sariputta (Xá-Lợi-Phất). Về sau, Vua xứ Magadha có lập nơi đây một trường Phật-học để đào-tạo Tăng-tài. Trường ấy trở thành một Ðại-học đường sản-xuất nhiều triết-học-gia danh-tiếng, trong thời trung-cổ. Thầy Huyền-Trang, lúc đến Ấn-Ðộ, có xin vào học môn triết-lý và khảo-cứu tài-liệu về Phật-giáo Ðại-thừa, trong nhiều năm.

Ðến chặng thứ ba, Ðức-Phật ghé làng Pãtali, trên một ngã ba rạch, vựa mé sông Găng, thuận-tiện buôn-bán nên có nhiều dân-cư và cũng là một địa-thế về chiến-lược quân-sự, nên Vua A-Xà-Thế định dời kinh-đô lại đây, lấy tên là Pãtaliputta (hiện nay là Patna), để ngăn-ngừa dân VajjisLicchavis và cũng để mưu-toan đô-hộ dân ấy.

Ðến đây dân-chúng tổ-chức tiếp-đón Ðức-Phật rất trọng-thể và kết thuyền đưa Ðức-Phật và Chư-Tăng qua sông, vì nhằm cuối mùa xuân, tuyết rả từ trên núi chảy xuống ngập-bờ. Cũng nơi đây, trên đường hành-trình đầu tiên, từ rừng Uruvela qua vườn Isipattana (Lộc-giả), Ðức-Phật muốn qua sông mà không có tiền, tên đưa đò không chịu đưa. Túng thế, Ngài phải dùng thần-thông bay qua; chừng ấy tên chèo đò ăn-năn hối-hận, vì mất dịp làm-phước đến Vị Thánh-nhân. Câu-chuyện nầy thấu-tai Vua Bimbisara, nên Ngài hạ lệnh cấm chủ-đò thâu tiền các vị thầy-tu qua sông.

Ðức-Phật vừa đến Vesali thì các Vị Tiểu-vương Licchavis và nàng Ambapãli đua nhau thăm-viếng cúng-dường.

154- Ðức-Phật đến Vesali kỳ-nầy có việc chi xảy ra khác thường chăng?

Ðức-Phật đến viếng xứ Licchavis lấn nấy là lần cuối-cùng.

Mùa mưa sắp tới, Ðức-Phật dạy các thầy Tỳ-Khưu lựa nơi nhập-hạ, trong các làng kế cận. Riêng Ngài, Ngài sang nhập-hạ tại làng Beluva. Vừa an-cư, Ðức-Phật lâm bệnh nặng, thân-thể đau nhức, tứ-chi rủ-liệt, nhưng Ngài gom-tâm định thần, nín-chịu không rên-siết. Lúc ấy, Ðức-Phật nghĩ: "Nếu Như-Lai bỏ xác mà không tỏ lời vĩnh-biệt với những môn-đệ, đã hết lòng lo-lắng cho Như-Lai, hầu an-ủi họ và không cho Giáo-hội Tăng-chúng biết trước, thì thật là một việc không hay. Vậy Như-Lai phải dùng năng-lực của ý-muốn, để chế-ngự căn-bệnh và tạm giữ sự sống lại". Nói rồi, Ngài thực-hiện theo ý-muốn, nên chứng-bệnh chấm dứt. Vừa phục-hồi sức khoẻ, Ðức-Phật đứng dậy, bước ra ngồi dưới bóng mát, ngoài thềm tịnh-thất.

Ðại-đức Ananda đến gần đảnh-lễ rồi ngồi kề bên thỏ-thẻ:

"Ðệ-tử thấy Ðức Thế-Tôn đã lành mạnh rồi; lúc Ðức Thế-Tôn lâm bệnh, thân-thể của đệ-tử đã thất-thần, thị-lực của đệ-tử tán-loạn, nhưng đệ-tử được an-ủi khi tưởng rằng, trước khi viên-tịch, Ðức Thế-Tôn còn phải cho biết ý-định của Ngài về Giáo-đoàn Tăng-chúng".

-"Nầy Ananda, Giáo-đoàn Tăng-chúng còn muốn gì nữa? Như-Lai đã truyền dạy đầy-đủ Giáo-Pháp rồi; Như-Lai không phân-biệt bên trong, bên ngoài; chân-lý đã chỉ dạy cặn-kẻ không thiếu-sót chỗ nào. Nầy Ananda, kẻ nào cố-ý muốn thống-trị Giáo-đoàn Tăng-chúng, hoặc muốn cho Giáo-đoàn Tăng-chúng phải chịu đặt dưới quyền cai-quản của họ, thì kẻ ấy cứ ban huấn-lệnh cho Giáo-đoàn; điều ấy không phải là tư-tưởng, là ý muốn của Như-Lai đâu. Như-Lai đã già yếu rồi, đã đến mức cuối cùng rồi, tuổi thọ của Như-Lai đã tám-mươi rồi. Nầy Ananda, bởi thế, từ nay hoặc sau khi Như-Lai nhập-diệt rồi, người nào biết tự làm cây đuốc để soi đường, tự nương-nhờ lấy, không nương-nhờ nơi đâu khác hơn, tự lấy Pháp-Bảo làm đuốc soi-đường, chẳng tìm nương-nhờ nơi nào khác hơn, kẻ ấy sẽ là đệ-tử cao-thượng của Như-Lai, sẽ tiến đến nơi giác-ngộ".

Nói rồi Ðức-Phật mang bát vào thành Vesali trì-bình; trở về thọ-thực xong, Ngài vào rừng ngồi nghỉ dưới cội cây, chuyện-vãn với Ðại-đức Ananda:" Nầy Ananda, người nào đã vun trồng và thực-nghiệm sâu-xa bốn pháp 'Nguyện-Vọng Pháp Mầu' (Iddhipãda: Tứ Căn-Thông hay Tứ Thần-Túc), nếu muốn, có thể sống lâu trọn một kiếp, hoặc nhiều hơn một kiếp; bậc Chánh-Ðẳng Chánh-Giác cũng vậy". Ðức-Phật lập lại ba lượt, Ðại-đức Ananda ngơ-ngẩn không hiểu ý Phật, ngồi lặng-thinh. Ðức-Phật bảo Ông Ananda đi nghỉ dưới cội cây khác ở kế-cận. Mara (Ma-vương) liền hiện đến gần Ðức-Phật, nhắc lại lời thỉnh cầu Ngài vào an-nghỉ trong Niết-Bàn, từ buổi Ngài mới thành Phật dưới cội Bồ-đề. Lúc ấy Ðức Thế-Tôn từ chối không chịu nhập-diệt, vì đạo-pháp chưa được truyền-bá; ngày nay Ngài đã đào-tạo rất nhiều Tăng-chúng kế-nghiệp Giáo-Pháp của Ngài cũng đã được phổ-cập cùng khắp mọi nơi; đệ-tử đến đây thỉnh Ðức Thế-Tôn nhập Vô-lượng-thọ Niết-Bàn.

Ðức-Phật đáp:" Nầy Ma-vương, ngươi chớ nên âu-lo, ngươi khỏi cần chờ đợi; giờ nhập-diệt của Như-Lai sắp đến; trong ba tháng nữa Như-Lai sẽ nhập Niết-Bàn". Ma-vương vui mừng biến mất. Ðức-Phật liền định từ nay là ngày trăng tròn tháng Tư, Ngài sẽ vào Niết-Bàn. Quả địa-cầu bổng nhiên rung động, sấm-sét nổ vang giữa bầu trời thanh-bạch, làm cho mọi người kinh-khủng. Ðại-đức Ananda chợt tỉnh, sực nhớ lại những lời Ðức-Phật đã thốt ra lúc giờ ngọ. Ông đâm ra lo sợ, và khi mặt trời lặng đến giờ Tăng-chúng tựu-họp lại nghe pháp, ông đến gần Ðức-Phật hỏi duyên cớ của hiện-tượng phi-thường vừa xảy ra lúc xế-chiều. Ðức-Phật giải thích cho Ông nghe rằng Ngài đã nhận lời thỉnh cầu nhập-diệt của Ma-vương, và khi Ngài định ba tháng nữa sẽ từ-biệt thế-gian vào Niết-Bàn, quả địa cầu rung động như thế ấy. Ông Ananda liền quì lạy thỉnh-cầu Ðức-Phật ở lại trọn kiếp thế-gian. Ðức-Phật trả lời: "Nầy Ananda, bậc Chánh-Ðẳng Chánh-Giác chỉ nói một lời, Như-Lai không thể vì ngươi mà thất-hứa với Ma-vương".

Vì Ông Ananda không thỉnh Ðức-Phật lưu-lại thế-gian, lúc ban trưa, khi Ngài cho Ông biết rằng Bậc Chánh-Ðẳng Chánh-Giác, nhờ bốn pháp Thần-túc, có thể sống thêm một kiếp hoặc hơn một kiếp, nên sau lại người ta khép Ông Ananda vào cái đại-tội "để cho Ðức-Phật nhập Niết-Bàn quá sớm".

Ðại-đức Ananda, trọn 25 năm trường, đã hy-sinh tận-tụy, hầu-hạ, săn-sóc Ðức-Phật từ giờ khắc, đã không được ban-thưởng, lại còn phải gánh trách-nhiệm về ý-định nhập Niết-Bàn của Ðức-Phật, thật là bất-công. Ðúng ra không ai phiền-trách Ông Ananda, về sự xao-lãng của Ông, bởi xét-kỷ; việc nào đến, nó phải đến và Ðức-Phật cũng thường dạy: "Có sanh thì phải có diệt".

Kế tiếp, Ðức-Phật xây qua dạy các thầy Tỳ-Khưu:" Nầy Chư môn-đệ, các con rán học cho thông-suốt Giáo-Pháp của Như-Lai, và phải thực-hành, rèn-luyện, tiến-tới hầu duy-trì cho lâu-dài đời sống Thánh-nhân, đem lại sự tấn-hoa cho nhiều người; vì lòng thương nhân-loại, ban-bố hạnh-phúc an-vui cho trời và người. Giáo-Pháp của Như-Lai đã truyền dạy cho các môn-đệ như thế nào?

Ấy là:

- Tứ-Niệm-Xứ (Satipatthãna)
- Tứ-Chánh-Cần (Samappadhãna)
- Tứ-Thần-Túc (Iddhipãda)
- Ngũ-Căn (Indriya)
- Ngũ-Lực (Bala)
- Thất Bồ-Ðề Phần (Bojjhanga)
- Bát-Chánh-Ðạo (Atthangikamagga)

Các pháp ấy Như-Lai đã tìm và đã truyền đủ cho các con rồi. Như-Lai cũng thường dạy rằng mọi sự-vật trên thế-gian đều Vô-Thường, các con hãy bền-chí tranh-đấu. Còn chẳng bao lâu Như-Lai sẽ nhập-diệt; từ nay đến ba tháng nữa, Như-Lai sẽ vào Niết-Bàn. Ðời sống của Như-Lai sấp đến mức cuối-cùng. Như-Lai sẽ đi, các con ở lại; chỗ của Như-Lai đã dọn sẵn rồi. Các con hảy thức-tỉnh, đừng xao-lãng, hảy sống luôn luôn theo bậc Thánh-nhân, cương-quyết gìn-giữ tâm-trí sáng-suốt. Thầy Tỳ-Khưu nào không thối-chuyển, bền-chí, trung-thành sống theo chân-lý, thầy ấy sẻ thoát khỏi vòng sanh-tử, sẽ đến nơi diệt khổ".

 

P. Ðức-Phật từ giã Vesali đi Kusinara

155- Ðức-Phật có định nhập Niết-Bàn tại đâu chăng?

Ðức-Phật không cho biết trước. Sáng ngày Ðức-Phật vào thành Vesali khất-thực. Khi trở về, Ngài ngoái mặt nhìn thành Vesali và nói với Ðại-Ðức Ananda: "Nầy Ananda, Như-Lai ngắm xem thành Vesali lần cuối-cùng, Như-Lai sẽ không còn trở lại đây nữa". Về đến chỗ ngụ, thọ, thực. Ðức-Phật và đoàn tùy-tùng lên đường, trực-chỉ về hướng Kusinara. Tín-đồ theo khóc-lóc đưa-đón, không muốn rời Ðức-Phật. Ngài khuyên-giải nhiều lượt, họ mới chịu trở về.

Sau khi trải qua nhiều chặng đường, ngày nọ Ðức-Phật đến thành Pãvã, vào tạm-trú một đêm trong vườn xoài của người thợ rèn tên Cunda. Người chủ vườn hay tin, lật-đật đến xin yết-kiến chào mừng Ðức-Phật và thỉnh Ngài cùng Chư-Tăng bữa sau đến nhà thọ-thực.

156- Bữa trai-tang nơi nhà người thợ rèn có chi đặc-biệt chăng?

Ðây là bữa cơm cuối cùng trước giờ nhập-diệt của Ðức-Phật. Khi thọ-thực rồi, Ðức-Phật bị kiết-lỵ, làm cho Ngài mệt nhọc vô cùng. Tuy vậy, Ðức-Phật cũng rán sức lên đường cho kịp đến Kusinara.

157- Tại sao Ðức-Phật gắp đến Kusinara và trong cơn bệnh hoạn đi đường có xảy ra điều chi chăng?

Ðức-Phật đã sắp đặt cuộc hành-trình của Ngài, từ Vesali đến Kusinara, và định phải đến nơi nội buổi xế chiều ngày ấy, để kịp giờ nhập-diệt.

Thân già yếu đi bộ ròng-rả trong ba tháng trường, ngày thì lần-bước theo đường gồ-ghề xuyên qua đồng ruộng, rừng núi, vượt-suối lên đèo, đêm thì ẩn-náu dưới cụm-tre chòm-xoài, dãi-nắng dầm-sương, tránh sao cho khỏi lao-thân mệt-xác, nên đi được nửa đường, Ðức-Phật đuối sức, dừng chân tạm nghỉ dưới một cội cây, và bảo Ðại-Ðức Ananda mau kiếm nước cho Ngài dùng đở cơn trầm-trọng của chứng-bệnh. Ông Ananda bạch cho Ðức-Phật biết vừa rồi có 500 cổ-xe thương-mại qua suối, nước nổi cặn-bùn và yêu-cầu Ðức-Phật rán đi thêm một đổi nữa đến rạch Kudhãnadĩ, có nước trong-trẻo, tắm-rửa và giải-khát chẳng muộn chi. Ðức-Phật cố-gắng đè-nén căn-bệnh, nhưng vì mệt-nhọc quá sức, tứ chi rủ-liệt, bảo Ông Ananda cho uống nước, rồi mới tiếp-tục lên đường được. Ông Ananda không đành cho Ðức-Phật uống nước cặn-đục, nhưng vì bị thúc-dục ba luợt, Ông buộc lòng ôm bát xuống khe; tới nơi, thấy nước đã lóng trong lại, Ông vui-mừng mút một bát đem dâng cho Ðức-Phật.

Vừa lúc ấy, có một vị Hoàng-tộc tên Pukkusa, dòng Malla xứ Kusinara, đi ngược chiều về hướng Pãvã, thấy Ðức-Phật ngồi nghỉ dưới cội cây, ông dừng-bước chào hỏi và truyện-trò với Ngài. Chính Ông Hoàng Pukkusa nầy cũng đồng thọ-giáo, như Ðức-Phật lúc mới đi tìm đạo với Vị Ðạo-sĩ Alãra Kãlãma. Ông thuật lại cho Ðức-Phật nghe một chuyện phi-thường của Ðức Thầy chung: "Ngày nọ, Ðức thầy Alãra Kãlãma ngồi nhập-định dựa mé lộ, có 500 cổ-xe đi ngang qua, mà thầy không hay biết chi cả. Chừng xuất-định, thấy bụi đóng một lớp dày trên thân-mình, mới biết đã có rất nhiều đoàn xe đi qua".

Ðức-Phật cũng thuật cho Ông Hoàng một chuyện tương-tợ:" Ngày nọ, tại làng Atumã, Như-Lai nhập đại-định trong một chòi tranh giữa đồng, trời phát giông-tố, mưa đổ tầm-tả, sét nổ đánh chết hai anh em người nông-phu và bốn con trâu, kế cận Như-Lai. Như-Lai cũng không hay biết".

Nghe vậy, Ông Hoàng Pukkusa tỏ lòng kính-phục thầy Cồ-Ðàm, liền xin qui-y làm thiện-nam và kêu người tùy-tùng đem vào hai sấp vải thượng-hạng, màu vàng sặc-sở chói ngời, dâng cho Ðức-Phật. Ngài thọ một sấp và cho Ông Ananda một sấp. Ông Hoàng bái-từ Ðức-Phật, lên đường v? hướng Pãvã.

Ông Ananda lấy sấp vải mặc cho Ðức-Phật; Ông rất kinh-ngạc thấy toàn thân của Ðức-Phật bây-giờ lại lóng-lánh chiếu-ngời một màu vàng rực-rở, làm cho sắc vàng của sấp vải kia mất hết vẽ đẹp sáng chói của nó. Ông hỏi duyên-cớ, Ðức-Phật giải rằng thân của bậc Chánh-Ðẳng Chánh-Giác ửng vàng một cách phi-thường trong hai thời-kỳ: trước giờ thành-đạo và trước giờ nhập Niết-Bàn.

Liền đó, Ðức-Phật đứng dậy lên đường. Ðến rạch Kudhãnadi, Ngài xuống tắm-rửa, giải-khát để lấy sức lại, nhưng dường như Ngài đã gần kiệt-lực. Tạm nghỉ một chập rồi Ngài chậm-rãi lần bước tới sông Hiranyavãti. Sông cạn phơi-bày những rãnh nước trong, giữa bãi cát trắng, chỉ xăn-y bước qua, nhưng tứ-chi rủ-liệt, Ðức-Phật không thể lội qua sông được.

Nhờ thanh-khí bờ sông, vừa khỏe được đôi chút, Ðức-Phật hối-hả đứng dậy, kêu Ông Ananda nói: "Rán một đoạn chót nữa Ananda, bên kia sông Hiranyavãti là rừng Salas, vườn thượng-uyễn của Vua Mallas, thuộc địa-phận thành Kusinara, nơi Như-Lai sẽ nhập-diệt."

Có sách ghi rằng từ chỗ gặp Ông Hoàng Pukkusa tới sông Hiranyavãti, Ðức-Phật phải nghỉ chân hai-mươi-tám lượt; nhờ pháp Tứ-thần-túc đè nén căn-bệnh và chủ-trì xác-thân, nên Ngài vững lòng từ từ tiến tới, mặc dầu sức-lực tiêu-mòn gần đến cực-độ.

Vừa qua sông, Ðức-Phật đã kiệt-quệ, hối Ông Ananda dọn chỗ nằm, giữa hai cây Salas và nói:" Như-Lai đã mệt lắm rồi, kịp lấy y cà-sa trải cho Như-Lai nằm nghỉ".

158- Có xảy ra điều chi khác thường tại Kusinara và trước giờ nhập Niết-Bàn, Ðức-Phật có để lời di-chúc chăng?

Ðại-Ðức Ananda hối-hả trải y trên tảng đá, giữa hai cây Song-long-thọ. Vừa xong Ðức-Phật lên nằm, nghiêng mình bên phải, tay mặt lót đầu làm gối, mặt nhìn về hướng Tây, đầu day qua phương Bắc, thì bông Sala rớt trên mình Ngài như mưa, và từ không-trung nhạc-trời reo-trổi.

Ðức-Phật kêu Ông Ananda phán rằng:" Thân Như-Lai bao-phủ đầy bông, mặc dầu không phải mùa hoa-trổ; Chư-Thiên tấu-nhạc cúng-dường Như-Lai. Nầy Ananda, còn một sự kính-mến, sùng-bái, tôn-thờ, chiêm-ngưỡng Như-Lai bằng cách khác: Tỳ-Khưu, Tỳ-Khưu-ni, Thiện-nam, Tín-nữ nào thực-hành đúng theo Giáo-Pháp của Như-Lai, chuyên-tu phạm-hạnh và sống cao-thượng theo bậc Thánh-nhân".

Ông Ananda quá cảm-động, bước ra ngoài, dựa vào gốc cây than-khóc: "Ta còn phải tu-học rất nhiều mà Thầy ta lại sắp nhập-diệt; Ngài có lòng Từ-bi thương-xót ta nhiều: Rồi đây ta biết nương-nhờ nơi ai?"

Ðức-Phật thấy vắng Ông Ananda, liền cho gọi vào an-ủi: "Nầy Ananda, đừng đau-khổ than-khóc nữa: Như-Lai đã từng nói rằng ở thế-gian nầy có lúc phải xa-lìa nhân-vật yêu-mến; có sanh phải có diệt, không sao tránh khỏi. Ananda ôi, bấy lâu nay những hành-động, lời-nói và tư-tưởng của ngươi đối với Như-Lai, đã chứng-tỏ rằng ngươi là một môn-đệ tận-tâm trung-thành và đáng thương. Ngươi đã tạo nhiều công-đức, chỉ thêm một chút cố-gắng nữa, ngươi sẽ tiến đến đạo-quả Niết-Bàn".

Ðức-Phật day qua các thầy Tỳ-Khưu dạy rằng: "Các thầy, Chư Phật quá-khứ và Vị-lai không có một nghĩa-đệ nào ưu-tú như Ananda. Ananda có tài tổ-chức những buổi tiếp-tân của Như-Lai, được mọi người vừa-lòng cảm-phục.

Ðối với Tỳ-Khưu, Tỳ-Khưu-ni, Thiện-Nam, Tín-nữ, Vua-chúa cùng các quan đại-thần, các Ðạo-sĩ Bà-La-Môn, Ananda đã tỏ ra khôn-khéo lịch-duyệt".

Kế đó, Ðúc-Phật sai Ông Ananda làm sứ-giả vào Hoàng-cung tâu cho Ðức Vua Mallas hay ý-định của Ngài nhập-diệt tại rừng Salas nội đêm nay. Ông Ananda vội-vã ra đi. Ðến hoàng-cung gặp lúc Vua cùng bá-quan đương hội-yến đông-vầy; Ông xin vào chầu Vua Mallas và tâu rằng: "Tâu Ðại-Vương, Bần-tăng vâng lệnh Ðức Thế-Tôn đến báo-tin cho Ðại-Vương rõ, Ngài vừa ngự đến rừng Salas và định nhập Niết-Bàn tại đó vào canh chót đêm nay".

Khi hay được tin ấy, Vua và Triều-thần đồng cảm động: "Ðức Gotama là dòng Vua sang-cả; vì thương xót chúng-sinh, chẳng nài lao-khổ, băng rừng lướt bụi, rày đây mai đó để cứu-vớt sanh-linh, nay phải cam-chịu bỏ xác giữa rừng, thật đáng cho chúng ta lễ-bái cúng-dường". Vua và bá-quan đồng rơi-lụy và đồng nhau đến rừng Salas xin vào yết-kiến Ðức Thế-Tôn. Ðức-Phật để lời khuyên nhủ Vua Mallas cùng bá-quan nên lấy đạo-đức và lòng Từ-bi dìu-dắt dân-chúng hướng-thiện tu-hành, dọn đường thẳng tiến đến nơi hạnh-phúc yên vui.

Tin buồn được loan-báo cùng khắp kinh-thành, dân chúng mũi-lòng than-tiếc, kéo nhau đến vườn Salas bái-yết Ðức-Phật. Ðến cuối canh một mới rảnh khách; nhưng Ðức-Phật và Ông Ananda không nghỉ ngơi được.

Ðạo-sĩ Subhadda đến xin ra mắt Ðức-Phật. Ông biết rằng trong thế-gian ít có Phật ra đời; ông vừa hay tin Phật-Tổ Gotama sắp nhập Niết-Bàn, ông hy-vọng gặp Ngài để cầu xin giải giùm những mối hoài nghi. Ba lượt Ông Ananda từ chối: "Nầy Hiền-Huynh, Ðức Thế-Tôn mệt-nhọc lắm, xin Hiền-Huynh để Ngài an-nghỉ". Ðức-Phật nghe liền kêu Ông Ananda dạy rằng: "Thôi Ananda, đừng cản trở Ðạo-sĩ Subhadda. Ý ông muốn thỉnh-giáo nơi Như-Lai, chẳng phải muốn làm rộn Như-Lai đâu".

Ông Ananda buộc lòng phải cho Ông Subhadda vào. Ðến trước Ðức-Phật, ông đảnh-lễ, tỏ lời viếng-an rồi xin phép hỏi đạo:

"Bạch Thế-Tôn, các vị Lục-Sư tự cho là bậc Trí-Tuệ cao-thượng, nên được nhiều người sùng-bái kính-phục; xin Thế-Tôn cho biết họ quả thật là bậc Trí-Tuệ uyên-thâm chăng?"

-"Subhadda nầy, chẳng nên bàn-luận đến Giáo-Pháp của người khác. Nếu ngươi nuốn nghe giáo-lý của Như-Lai. Như-Lai sẽ giảng-giải cho ngươi".

"Bạch Thế-Tôn, xin Ngài Từ-bi chỉ-giáo".

-"Nầy Subhadda, đạo của Như-Lai là phương-pháp thực-nghiệm có tám-chi, con đường duy-nhất đưa người đến nơi tận-diệt phiền-não. Người nào hành đúng theo, thì ắt sẽ được chứng quả Tứ-Thánh chẳng sai. Ngoài giáo-lý của Như-Lai, chẳng có Bốn hạng Thánh-nhân ấy. Nếu trong cõi đời nầy, có người hành đúng theo lời chỉ-dạy của Như-Lai, thì người ấy sẽ chứng đạo quả A-La-Hán".

Ông Subhadda được thỏa-mãn, xin Ðức-Phật cho xuất-gia.

Biết người có duyên-lành, Ðức-Phật dạy Ông Ananda làm lễ xuất-gia cho Ông Subhadda và bảo ông kiếm chỗ thanh-vắng tham-thiền nhập-định, trong giây-lát ông đắc quả A-La-Hán. Ông là người đệ-tử cuối-cùng của Ðức-Phật.

Chính tại Kusinara, nơi rừng Salas nầy, trong Vô-lượng tiền-kiếp, khi Ðức-Phật còn là một vị Bồ-Tát, cũng đã cứu-độ người đệ-tử chót nầy rồi. Thuở nọ, Bồ-Tát sanh làm chúa-đoàn một bầy nai. Một ngày kia bị một trận lửa rừng kinh-đởm, bầy nai chạy ra mé rạch, tìm lối thoát thân. Nước đổ như thác, tuy rạch nhỏ nhưng không thể lội qua bên kia bờ được. Lửa cháy gần tới mé rạch bầy nai sợ-hãi xăn-văn chờ chết. Bồ-Tát liều-thân, nổ-lực cõng từ con nai, lội-ngằm dưới nước đưa qua bờ kia. Con nai cuối cùng được cứu khỏi hỏa-hoạn, trước khi Bồ-Tát bị giòng-nước cuống mất, chính là tiền-thân của Ông Subhadda.

Ðêm đã gần tàn, Ðức Thế-Tôn kêu Ông Ananda lại dạy: "Nầy Ananda, sau nầy ắt có nhiều người tưởng rằng lời nói củaNhư-Lai đã mất rồi, họ không còn Thầy-Tổ nữa. Nầy Ananda, chẳng nên tưởng như thế. Giáo-Pháp và giới-luật của Như-Lai di-truyền, để noi theo đó mà sống một cuộc đời trinh-khiết, chính là Thầy của các ngươi, sau khi Như-Lai tịch-diệt".

Rồi Ðức-Phật day qua hỏi hàng Tăng-chúng:" Nầy các thầy Tỳ-Khưu, các thầy còn hoài-nghi điều chi về Giáo-Pháp của Như-Lai, các thầy cứ nói đi, Như-Lai sẽ giải-thích cho". Hỏi ba lượt, chẳng có một ai trả lời, Ðức-Phật tiếp thêm: "Như-Lai đã thường dạy các thầy rằng trong đời có sanh thì phải có diệt; vậy các thầy hảy cố-gắng tu-hành đến nơi giải-thoát, chớ nên dãi-đãi, dễ duôi". Ðó là lời di-huấn tối-hậu của Ðức Thế-Tôn.

159- Giờ nào Ðức Thế-Tôn mới nhập-diệt?

Từ đó, Ðức-Phật lặng-thinh, nhập-diệt, từ Sơ-Thiền Hữu-Sắc đến Tứ-Thiền Vô-Sắc, đến Diệt-thọ-tưởng-định kế trở lần xuống Sơ-Thiền Hữu-Sắc, rồi trở lên đến Tứ-Thiền Hữu-Sắc, rồi nhập Vô-lượng thọ Niết-Bàn. Lúc ấy trời vừa rạng-đông, nhằm sáng ngày 16 tháng Vesakha.

Quả địa-cầu rung-động và nhạc-trời tiêu-rổi từ không trung.

Trời Phạm-Thiên Sahampati cất tiếng bi-ai:

"Ô hô! chúng-sanh trong hoàn-võ
Ngày kia sẽ bỏ xác lại thế-gian;
Cũng như Ðức Thế-Tôn, Ðấng Từ-Hàn Ðại-giác
Ðã vào chốn an-lạc Niết-Bàn".

Trời Ðế-Thích Sakka tiếp lời:

"Các pháp Hữu-vi Vô-Thường biến đổi,
Hết sanh đến diệt, diệt rồi lại sanh;
Diệt được pháp-hành mới hết sanh diệt,
Hết sanh, hết diệt mới thật yên-vui".

Hàng Tăng-chúng có nhiều người khóc-lóc than-tiếc:

"Hỡi Ðức Thế-Tôn, sao Ngài vội nhập Niết-Bàn?"

-"Ô hô! Con mắt thế-gian đã nhắm lại rồi. Riêng các bậc đã thấu-lý Vô-Thường của vạn-vật, các vị Ðại A-La-Hán, đều bình-tỉnh lặng-thinh".

160- Ai lãnh nhiệm-vụ lo phần nghi-thức tẩn-liệm và an-táng Thánh-thể của Ðức Thế-Tôn?

Sáng ngày Ðại-Ðức Anurudha phái tôn-giả Ananda vào cung báo tin cho Vua Mallas hay Ðúc Thế-Tôn đã viên-tịch lúc sao-mai vừa mọc. Vua chúa và triều-thần cảm-xúc rơi-lụy. Dân-chúng được lệnh đem trầm-hương, bông hoa, nước thơm và nhạc-lễ đến cúng-dường Ðức-Phật tại vườn Salas.

Vua Mallas đích-thân đứng ra đảm-đương công việc tẩn-liệm Thánh-thể của Ðức Thế-Tôn, theo nghi-thức dành riêng cho một Vị Ðế-Vương: Dùng một ngàn cây lụa trắng bao bọc Thánh-thể, liệm vào hòm sắt, sơn vàng; quàn lại bảy ngày đêm cho toàn-thể dân-chúng đến chiêm-bái cúng-dường.

Ðức Vua cho thiết-lập hỏa-đài tại cửa Nam thành Kusinara. Ðến giờ đi linh-cửu ra hỏa-đài, tám vị lực-sĩ tắm rửa sạch-sẽ, sắc-phục chỉnh-tề vào động-quan, nhưng không thể đở hòm lên nổi. Vua Mallas ngạc-nhiên, hỏi Ðại-Ðức Anurudha. Ngài bảo rằng Chư-Thiên-Vương tỏ-ý muốn thỉnh Thánh-thể Ðức Thế-Tôn vào thành Kusinara do cửa Bắc, đến trung-tam thành-phố trở qua cửa Ðông, thẳng tới Hoàng-điện "Tôn-Vương", rồi sẽ cử-hành lễ trà-tỳ tại đó.

Ðức Vua phải ra lệnh dời hỏa-đài qua cửa Ðông. Chừng ấy tám lực-sĩ thỉnh hòm ra đi nhẹ-nhàng. Từ không trung nhạc-trời reo-trổi và bông mạng-thù rớt xuống như mưa, mùi thơm bát-ngát.

Hòm đặt xong trên hỏa-đài, bốn vị Quốc-Sư, tay cầm bốn cây đuốc, từ từ bước đến châm vào bốn góc. Ðuốc tàng mà lửa không cháy. Vua Mallas hỏi Ðại-Ðức Anuradha. Ngài dạy rằng Chư-Thiên-Vương tỏ-ý yêu cầu chờ Ðại-Ðức Maha Kasappa (Maha Ca-Diếp) sắp đến trong giây lát. Lễ hỏa-táng phải tạm ngưng.

Ðại-Ðức Maha Kasappa, cùng 500 đồ-đệ, từ thành Pãvã sang Kusinara; vì mệt-mỏi thầy trò dừng chân nghỉ mát. Kế có người đi đường, từ hướng Kusinara đến, trên tay có cầm một bông Mạng-thù, Ðại-Ðức Ca-Diếp kêu hỏi: Từ Kusinara đến, Ông có biết tin-tức của Vị Ðại-Sa-Môn Cô-Ðàm ra thế nào chăng? Ông Sa-Môn Cô-Ðàm đã viên-tịch từ bảy ngày qua; hôm nay Ðức Vua Mallas làm lễ hỏa-táng, chính bông mạng-thù nầy tôi lượm được tại hỏa-đài.

Vừa nghe tin buồn ấy, nhiều thầy Tỳ-Khưu ré lên khóc lóc thảm-thiết. Lúc ấy có ông Tỳ-Khưu tên Subhadda (trùng tên với Vị đệ-tử cuối-cùng của Ðức-Phật) đứng ra khuyên-giải; Các thầy khóc lóc làm chi. Ông Cồ-Ðàm đã ra người thiên-cổ, không còn ai la rầy quở-trách, bắt-buộc chúng ta phải nghiêm-trì giới-luật, bực-bội khó-khăn. Từ nay chúng ta sẽ được tự-do hành-động, các thầy khóc nổi gì?

Ðây là nguyên-nhân đầu-tiên, làm cho Chánh-Pháp sai-lạc, Phật-giáo phải suy-đồi.

Ðại-Ðức Maha Ca-Diếp nghe thầy Subhadda thốt lời đê-tiện, rất lo ngại cho tiền-đồ Phật-Giáo. Vì sắp lên đường đến Kusinara cho kịp lễ hỏa-táng Ðức-Phật, nên Ngài giả-lơ, nhưng cũng để tâm ngăn-ngừa kẻ cố-tâm phá-hoại.

Vừa đến nơi, Ðại-Ðức Maha Ca-Diếp đi vòng quanh hỏa-đài ba lượt, rồi đến ngay giữa quì lạy ba lạy. Ðoàn tùy-tùng của ngài, tùy hạ cao thấp, lần lượt vào lạy trước hòm vàng.

Ðại-Ðức Maha Ca-Diếp và 50 vị Tỳ-Khưu vừa làm lễ xong, thì hòm vàng phựt hào quang sáng rở, lửa tự-nhiên bóc cháy, làm mọi người kinh-ngạc. Ngọn lửa vừa hạ, Vua Mallas lấy nước thơm tưới thêm cho thiệt nguội để thỉnh những mãnh-xương còn lại đem về thờ. Tất cả gồm có: Một mãnh xương trán, 2 khúc xương vai, 4 răng nhọn, 5 cân xương nhỏ bàng hột bắp, 6 cân bằng hột gạo và 5 cân bằng hột mè, đều được để vào ô-vàng, cung-nghinh về hoàng-cung, thiết lễ cúng-dường.

161- Ðức-Phật có cho biết vì lý-do nào Ngài định nhập diệt tại Kusinara chăng?

Vừa đến Kusinara, Ðại-Ðức Ananda thấy địa-thế không mấy thích-hợp, nên có yêu-cầu Ðức-Phật chọn nơi khác thuận-tiện hơn, để nhập-diệt:

"Bạch Ðức Thế-Tôn, xin Ðức Thế-Tôn chớ vội nhập Niết-Bàn trong chốn đồng-ảng thôn-quê này. Ðức Thế-Tôn có thể lựa những đô-thành lớn khác như Rajagaha, Savatthi, Champa, Kosambi hoặc Bénarès, vì nơi ấy có nhiều bậc Vua-chúa, nhiều nhà quí-phái, Bà-La-Môn, trưởng-giả rất trung-thành với Ðức Thế-Tôn; họ sẽ lo phần hoả táng xứng-đáng hơn".

Ðức-Phật trả lời:

-"Ðừng nói thế, Ananda. Trong tiền-kiếp, lúc Như-Lai còn là một Vị Chuyển-luân-Vương, Như-Lai đóng đô tại đây. Kusinara thuở ấy là kinh-thành Kusavati, to lớn và phồn-thạnh đệ-nhất trên hoàn-cầu. Vì đó, Như-Lai chọn lựa nơi đây làm chỗ tịch-diệt".

Còn một lý-do khác Ðức-Phật không nói ra, nhưng sau rồi người ta mới biết Ngài đã dự-liệu đủ mọi điều để tránh tai-hoạ về sau.

Xương của Ðức-Phật gọi là Sarira Dhãtu (Xá-Lợi) được tất cả Phật-tử xem như vật kỷ-niệm vô-giá, trân-châu quí-báu trong đời không thể sánh bằng, nên các Vị Quốc-Vương đều muốn có một phần, để lập đền thờ công-cọng, cho bá-tánh thường ngày đến lễ bái cúng dường, như lúc Ðức Thế-Tôn còn tại thế. Cho nên vừa hay tin Ðức-Phật nhập Niết-Bàn tại Kusinara, các Vị Quốc-Vương liền phái Sứ-thần đến xin lãnh một phần Xá-Lợi về thờ. Cả thảy có bảy Vị Ðại-diện cho Vua xứ Magadha, Vesali, Kapilavastu, Savatthi, Allakappa, Ramagama, Veddhadipaka, rần-rộ kéo binh mã đến đóng trại ngoài thành Kusinara.

Ban sơ Vua Mallas nhất định không chia Xá-Lợi cho các Sứ-thần; nhưng các vị nầy cố nài-nỉ và tỏ rằng Ðức-Phật là dòng cao-thượng, chính họ cũng thuộc dòng cao-thượng, muốn có Xá-Lợi đem về xứ lập đền thờ vật kỷ-niệm vô-giá của Ðức-Phật. Họ nhẫn-nại nhưng tỏ-ý cương-quyết xin chia cho được Xá-Lợi mới chịu trở về xứ.

Phần Vua Mallas lại tưởng rằng Ðức-Phật tìm đến nhập-diệt tại Kusinara, cốt yếu giao-phó nhiệm-vụ cho dòng Mallas bảo-tồn Xá-Lợi, hầu ngày kia xứ Kusinara sẻ trở nên giàu có thịnh vuợng lâu dài.

Thấy sự gây cấn có thể kết-liểu bằng một cuộc chiến-tranh tàn-khốc, mà xứ Kusinara là một nước nhược-tiểu, không thể chống-trả với bảy đạo hùng-binh đương bố-trí chung quanh, Ông Dona, vị quốc-sư của Vua Mallas xin đứng ra hòa-giải:" Ngoài dòng Sakya tại xứ Kapilavastu, chúng ta không phải quyến-thuộc thân-nhân của Ðức Thế-Tôn; sở dĩ các Vị Quốc-Vương muốn có Xá-Lợi của Ðấng Trọn-Lành để lập đền thờ, là vì xứ nào cũng nhìn-nhận Ðức Gotama là vị Giáo-Chủ của đạo Từ-bi cứu khổ. Bởi lòng sùng-mộ nên xứ nào cũng muốn có Ngọc Xá-Lợi để tiêu-biểu Ðức Từ-bi Vô-lượng, mong nhờ ảnh-hưởng của Ðấng Từ-Tôn hầu phát-tâm tu-hành, trước tự-độ, sau xây-dựng hạnh-phúc an-vui cho đời và duy-trì Chánh-giáo cho được bền vững lâu dài. Xưa kia Ðức thế-Tôn thường dạy chúng ta dứt bỏ oan trái, oán-thù, đoạn tuyệt Tham, Sân, Si, chẳng nên giết hại lẫn nhau, phải thương yêu, hoà thuận, đoàn-kết, hầu dìu-dắt nhau trên đường giác-ngộ. Nếu chúng ta thật tâm yêu chuộng giáo-lý của Phật-Ðà và có lòng tôn thờ Ngài là Ðấng Giáo-Chủ, thì chúng ta nên hoan-hỷ đem Xá-Lợi ra chia tám phần đồng nhau cho mỗi xứ đem về lập đền thờ, cho dân chúng chiêm-ngưỡng cúng-dường, phát-tâm trong sạch thực-hành đúng theo kinh luật di-truyền. Như th? ấy chúng ta mới thật là người xứng-đáng làm đệ-tử của Ðức Cồ-Ðàm".

Nghe được lời hòa-giải đúng lý, Vua Mallas và bảy Vị Sứ-thần đều tỏ lòng hòa-thuận, giao cho Quốc-Sư Dona lãnh trách-nhiệm phân chia Xá-Lợi ra tám phần đồng nhau. Mỗi Vị Sứ-thần lãnh một phần, đặt trong một binh vàng, để trên một thớt tượng to lớn, mở đường đi trước, binh mã rần-rộ theo sau, lên đường về xứ với tấm lòng hân-hoan sùng kính. Quốc-Sư Dona xin cây cân vàng dùng để chia Xá-Lợi, làm vật kỷ-niệm cho riêng phần ông.

Các xứ nhỏ ở xa-xâm phái đại-diện đến trể, chỉ thỉnh được một mớ tro tàn đem về thờ.

Nếu Ðức-Phật nhập-diệt trong một xứ nào hùng-cường, như xứ Magadha chẳng hạn, thì các xứ nhỏ khó bề xin cho được Ngọc Xá-Lợi về thờ. Ðức-Phật đã tiên-đoán, biết thế nào cũng sẽ có sự tranh dành, nên Ngài nhất-định nhập-diệt tại Kusinara. Vua Mallas tự biết không đủ binh-lực đẻ thắng bảy xứ kia, kết-cuộc cũng phải nhượng bộ hoà-giải.

Các phần Xá-Lợi được tám Vị Quốc-Vương thỉnh về lập đền thờ công-cọng, giữa kinh-đô cho thập-phương bá-tánh, hằng ngày đem nhang đèn, bông hoa, nước thơm đến cúng-dường.

Tám tháp đầu-tiên đều xây bằng gạch, hình bán-cầu như vòm-trời, trên những đồi cao. Nơi chót đỉnh có một cây-tàn che, chung-quanh có hàng-rào và một hoặc bốn cửa-vô.

Hai thế-kỷ sau, Vua Asoka (A-Dục) rất sùng-mộ Phật-Pháp, góp tất cả Xá-Lợi, chia ra 84.000 phần, xây tháp thờ cùng khắp lãnh-thổ Ấn-Ðộ, để tiêu-biểu đức-lành của Bậc Vĩ-nhân, cho dân-chúng chiêm-bái và tự-tỉnh tu-hành. Các cổ-tháp ấy, lâu đời bị hư-đổ; hiện nay Chánh-phủ Ấn-Dộ đương lo sùng-tu, kiến-thiết; nhất là bốn nơi Ðộng-tâm:

Tại:

- Lumbini (Lâm-Tỉ-Ni): Chỗ Ðức-Phật giáng sanh
- Buddha-Gaya (Bồ-Ðề Ðạo-Tràng): Chỗ Ðức-Phật thành đạo
- Isipatana (Lộc-giả): Chỗ Ðức-Phật thuyết-pháp lần đầu-tiên, độ Năm thầy Kiều-trần-Như 
- Kusinara (Câu-Thi): Nơi Ðức-Phật nhập Niết-Bàn.

162- Hành-trạng của Ðức-Phật có thể tóm-lược như thế nào?

Ðức-Phật là một người như mọi người khác. Ngài đã qua đời vì có sanh phải có tử.

Ngài nhập-diệt ở giữa trời, cũng như lúc đản-sanh, lúc thành-đạo và cũng như Ngài thường sống từ buổi xuất-gia tìm đạo đến giờ viên-tịch. Ngài chết vì bệnh, trong tuổi già và chỉ nhờ đệ-tử của Ngài, nhất là Ðại-Ðức Ananda chăm-nom săn-sóc.

Ðức-Phật chết và không trở lại, như ngọn đèn cạn dầu hết tim. Tín-đồ cảm-phục Ân-đức chí-thiện của Ngài, kính-mộ lòng Từ-bi Vô-lượng của Ngài, nhưng không còn mong mỏi được trực-tiếp tế-độ. Mặc dầu như thế, trải qua trên 2.500 năm, tín-đồ chẳng bao giờ quên Ðức-Phật. Ðời còn đau-khổ, lòng sùng-kính của họ vẫn còn. Nhân-loại luôn luôn nhớ đến Vị Y-Vương đã tìm thuốc cứu-rỗi tâm-hồn. Ánh sáng của Ngài vẫn còn chiếu rọi vĩnh-viễn; môn-đệ của Ngài truyền nối đời đời.

Ðức-Phật vừa là một nhà đạo-đức, vừa là một nhà tự-do tư-tưởng. Ngài không dụ-dỗ ai theo Ngài và cũng không bắt-buộc ai phải có một đức tin mù-quáng.

Mặc dầu giáo-lý của Ngài không nhìn nhận có linh-hồn trường cửu, không nhìn nhận có tạo-hoá, nhưng cũng đã có 500 triệu tín-đồ trên khắp mặt địa-cầu, và số ấy càng ngày càng tăng thêm mãi mãi. Ðiều ấy không chi lạ, vì ai ai cũng công-nhận đời là Vô-Thường Khổ-não; và nhờ Ðức-Phật chỉ dạy con đường diệt-khổ, thoát khỏi luân-hồi, đến nơi yên-vui tuyệt-đối là Niết-Bàn. Người Phật-tử không xem sự diệt-tắc luân-hồi là một cảnh-trạng bi-quan, lại còn tin-tưởng rằng là một sự may-mắn hy-hữu, một thắng trận vinh-quang.

Muốn tiến-nhập Niết-Bàn, Ðức-Phật dạy phải xuất-gia, để sống một cuộc đời rảnh-rang, khỏi bận-lo đến gia-đình, nghề-nghiệp và xã-hội. Bởi tùy-thuộc nơi kẻ khác là một điều khổ; tùy-thuộc nơi mình là hạnh-phúc, tự-do như chim sổ lồng, sống không thù-oán giữa kẻ thù-oán, không dục-vọng giữa kẻ dục-vọng, không tham-lam giữa kẻ tham-lam, vui-thú với cảnh cô-độc, tự-tại nơi thâm-sơn cùng-cốc, với cảnh-vật thiên-nhiên mà người thế không thể nếm được.

Trải qua Vô-lượng kiếp luân-hồi, Ðức-Phật đã làm nhiều công-đức lợi-tha, nên đến kiếp chót Ngài đã vượt khỏi sự xấu-xa ích-kỷ của loài người. Khi thành đạo-quả Vô-Thượng Chánh-Giác, Ngài tiếp-tục làm tròn sứ-mạng phổ-tế quần-sanh.

Ðức-Phật không phải là một nhà vô-thần-luận, bởi Ngài tin có các Vị-Trời, nhưng Ngài không cho rằng các Vị-Trời có một quyền-lực nào trong nguồn máy của vũ-trụ, hoặc trong số mạng của loài người. Như thế Ðức-Phật cũng không phải là một nhà hữu-thần-luận.

Ðức-Phật không phải là người tạo ra cảnh-giới cực-lạc, bởi tôn-chỉ đạo-đức của Ngài không đem lại sự vui-sướng mà chỉ tìm sự diệt-khổ.

Ðức-Phật không chối-cải cái Ta, nhưng Ngài không cho rằng nó là một thực-thể, bởi nó Vô-Thường biến đổi.

Ðức-Phật không dạy thuyết định-mệnh, tuy rằng mọi người sanh do nghiệp lực cấu-tạo từ trước, nhưng ai ai cũng có quyền định đọat cho tương lai của mình. Ngài cũng không phải là một nhà cách-mạng xã-hội, bởi Ngài chỉ áp-dụng sự đồng đẳng trong Giáo-hội Tăng-lữ của Ngài thôi.

Ðức-Phật có nghệ-thuật biện-luận mềm mại, khôn khéo, làm cho kẻ vấn nạn Ngài ngạc-nhiên khó nghĩ. Khi thấy họ bối rối, Ngài đem họ trở lại vấn đề và giải thích cho họ nghe bằng lời lẽ dịu ngọt. Luôn luôn Ðức-Phật tỏ ra người nhã-nhặn, đoan-trang, lễ-độ. Hoàn toàn lánh tục, nhưng không câu nệ chấp nhất, ai mời thỉnh đi thọ trai nơi thiền-thị, Ngài cũng vui-vẻ nhận lời.

Ðức-Phật nặng mang nhiệm vụ đối với đời; mỗi ngày sẵn-sàng thuyết-pháp giảng-đạo cho mọi người nghe; giờ rước khách không kể ngày đêm, không kể mệt nhọc. Ngoài ra Ngài còn đi vào làng mạc thôn quê tìm người tế-độ.

Ðối với các thầy Tỳ-Khưu, Ðức-Phật dạy phải lễ nghi đoan chính, phải hòa-thuận cùng nhau, để nêu gương tốt cho tín đồ. Ngài không cho các thầy sống cuộc đời buông lung; luôn luôn Ngài khuyên các thầy phải học, phải hành, phải đem đạo lý giảng giải cho tín đồ. Sống nhờ vật thực thuốc men của bá tánh, các thầy phải nổ-lực tu hành và đem lợi-ích cho đời.

Công trình giáo dục của Ðức-Phật không ngừng nghỉ. Có kẻ trách Ngài chỉ ở không đi xin ăn, trong lúc mọi người phải cày cấy mới có gạo; Ngài vui vẽ trả lời rằng chính Ngài trồng tỉa từng giờ, từng phút; tối ngày Ngài chỉ rảnh rang được đôi chút để nghỉ ngơi tham thiền. Thật vậy, Ðức-Phật là người hăng-hái hoạt-động duy nhất ở thế gian.

Ðức-Phật được người ta thương nhiều hơn là sợ. Ngài dạy chúng ta diệt bỏ tham lam ích-kỷ, là nguồn cội của tội ác và khuyên đem lòng từ-thiện, thương-yêu trợ giúp lẫn nhau, để chửa trị những nổi thống khổ trong đời.

Tóm lại, Ðức-Phật là Bậc Chí-Tôn Chí-Thánh, Ðấng Trọn-Lành duy-nhất ở thế-gian, đáng cho Chư-Thiên và Nhân-loại lễ-bái cúng-dường.

-HẾT-

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03 | 04 | 05

Chân thành cám ơn Bác sĩ Nguyễn Tối Thiện đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 04-2002)


[Trở về trang Thư Mục]
updated: 14-04-2002