BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Hãy Đến Để Thấy
Phật Giáo, Con
Đường Đưa Đến Hạnh Phúc

Ni Sư Ayya Khema
Chơn Minh Nguyễn Văn Phú, Tịnh Nghiêm Nghiêm Xuân Cường,
Diệu Liên Lý Thu Linh dịch (2006)

Come And See For Yourself:
The Buddhist Path To Happiness


Chương 5

Hai Loại Tài Sản

Bấy giờ Ugga, vị đại thần của vua đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Ugga, vị đại Thần của Vua, bạch Thế Tôn.

- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Giàu có đến như vậy, đại phú đến như vậy, tài sản nhiều đến như vậy, bạch Thế Tôn, là Migara Rohaneyyo!

- Này Ugga, Migara Rohaneyyo giàu có đến mức nào, đại phú đến mức nào, tài sản nhiều đến mức nào?

- Bạch Thế Tôn, về vàng có đến trăm trăm ngàn, còn nói gì về bạc!

- Này Ugga, đây có thể là tài sản chăng? Không phải Ta nói rằng đây không phải là tài sản. Nhưng tài sản ấy bị chi phối bởi lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch. Có bảy tài sản, này Ugga không bị lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, kẻ thừa tự, thù địch chi phối. Thế nào là bảy? Tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài, tuệ tài. Bảy loại tài sản này, này Ugga, không bị lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch chi phối.

Tăng Chi Bộ VII.7
(Anguttara-Nikaya VII.7)

*

Bài giảng ‘Hai Loại Tài Sản’ trích từ Tăng Chi Bộ kinh, cái ‘Giỏ của Những Lời Phật Dạy Tiệm Tiến’ (Basket of Gradual Sayings) hay ‘Sưu Tập của Những Bài Giảng Có Đánh Số’. Các kinh (sutta) trong Tăng Chi Bộ được tập họp thành nhóm căn cứ theo số đề mục được nói đến, nên trong quyển đầu tiên tất cả bài giảng nói về một vấn đề, quyển hai hai vấn đề và liên tục như thế. Bài giảng này nói về bảy khía cạnh của một vấn đề, đặc biệt liên hệ đến chúng ta vì nó cho ta thấy sự khác biệt giữa đời sống thế tục và đời sống tâm linh, phân tích rõ rệt hai chiều hướng mà ta có thể chọn lựa trong đời sống, và hai loại tài sản mà ta có thể tích lũy. Không có nghĩa rằng ta phải coi thường một trong hai loại tài sản này. Vì coi thường, trước hết, là một thái độ tiêu cực. Thêm nữa, cho là cuộc sống đời thường mất hết mọi giá trị một khi chúng ta đã bước vào con đường phát triển tâm linh là một quan niệm sai lầm vô cùng nguy hại; chúng ta vẫn còn phải phụ thuộc vào cuộc sống để có phương tiện tiếp tục tu tập.

Tất cả các tôn giáo đều nhắc nhở chúng ta rằng mọi của cải vật chất mà ta có được ở trên đời sẽ mất đi, và phần lớn chúng ta tự trong tiềm thức vẫn biết điều này, nhưng lại hay quên nó đi khi ta bắt đầu tích lũy tài sản thế tục. Những nguy cơ mà Đức Phật nói đến vẫn luôn ở quanh ta, tuy đôi lúc thể hiện dưới những hình thức khác nhau: thay vì các vua chúa, chúng ta phải đóng thuế cho chính phủ, cộng với công ăn việc làm bấp bênh, trong khi nạn trộm cắp lúc nào cũng có, và nước, lửa, thiên tai cùng các tai ương do con người tạo ra luôn đe dọa chúng ta.

Một trong nhiều nỗi lo sợ mà tất cả mọi người phải đối mặt dầu nhiều hay ít là sự sợ mất mát các sở hữu vật chất của mình. Người ta tự hỏi, ‘Điều gì sẽ xảy ra khi tôi già?’ hay ‘Tình trạng kinh tế có vẻ ngày càng tệ hại hơn - chừng nào mới hết đây?’ Sự bất an trong tâm do những nỗi sợ hãi này gây ra khó thể chế ngự được cho đến khi chúng ta nhận thức được rằng tài sản nội tâm giá trị nhiều hơn bất cứ những gì ta đang sợ mất – và rằng những lợi lạc ở bên ngoài cũng sẽ tự động theo sau một khi ta đã có được một tài sản tâm linh. Nhưng ít người tin điều này; họ không có sự tự tin sâu sắc mà tín tâm đòi hỏi.

Phần đông chúng ta dựa vào của cải bên ngoài - những sở hữu vật chất như là tài sản và tiền bạc – và sự lo sợ mất mát khiến chúng ta càng tích lũy nhiều hơn nữa. Ít khi chúng ta giới hạn những điều mình tham cầu, hay nghĩ rằng mình đã có đủ. Giới hạn thường là do các yếu tố bên ngoài định đoạt. Hoặc là vì chúng ta không thể kiếm thêm được nữa hay do ta đã lực cùng sức kiệt, hay bị bế tắc vì những yếu tố khác. Khi còn có khả năng, tư duy, vọng tưởng, chúng ta luôn nghĩ là mình thiếu thốn. Rất hiếm khi có người được thừa hưởng một gia tài vật chất lớn. Và ngay cả trong trường hợp này, người thừa hưởng gia tài cũng phải cố gắng để gìn giữ các ân huệ và tài sản thừa tự được –cho nên bài pháp cũng cảnh giác rằng người thừa tự có thể phung phí, làm tiêu tan tài sản. Để có thể hưởng của cải một cách thích đáng cũng cần phải có sự nỗ lực.

Migāra được nhắc đến một vài lần trong tạng kinh Pali. Ông sinh trưởng trong một gia-đình khá giả, được thừa hưởng gia tài do ông nội, là Rohana, tích lũy được. Đức Phật không phủ nhận đây là một gia tài. Ngài không nói, ‘Tài sản vật chất là xấu.’ Nhưng Ngài chỉ rõ rằng tài sản ấy không bền vững và không đáng tin cậy. Nếu người có một gia sản lớn và biết sử dụng nó một cách khôn ngoan thì tất cả đều tốt đẹp, nhưng chúng ta biết có một tài sản dành cho chúng ta còn quý báu hơn nhiều, mang lại hạnh phúc chân thật, không lệ thuộc vào của cải vật chất, mà lệ thuộc vào đời sống nội tâm của ta.

Những người rất giàu có trong xã hội thường phải sống dưới nhiều áp lực, luôn phải lo âu, phiền não trong nỗ lực bám víu lấy tài sản, cố bảo vệ nó, do đó cuộc sống không có được chút an lạc nào. Nhưng với người làm việc bình thường, vì quá bận rộn kiếm tiền nên không có thì giờ và sinh lực để tích lũy tài sản tâm linh, thì cũng không khá hơn chút nào. Sinh lực của chúng ta dĩ nhiên là bị hạn chế, nên nếu muốn theo đuổi con đường tâm linh thì ta cần dành chỗ, tạo điều kiện cho việc đó trong cuộc sống hằng ngày của mình. Chúng ta nên xem xét lại các nhu cầu vật chất của mình để có thể tiết giảm bớt đi. Nhờ đó năng lượng dành dụm được có thể sử dụng vào việc phát triển tài sản nội tại.

Từ ngữ ‘tài sản’ được sử dụng ở đây rất thích hợp. Đời sống nội tâm của chúng ta có thể là một thế giới hỗn loạn và là nguồn gốc của nỗi khổ niềm đau. Tuy nhiên, đời sống nội tâm cũng có thể là một thế giới đầy cái đẹp và sự hài hòa đáng trân quý, một hạnh phúc rạng rỡ và là một nguồn vui tràn đầy để chia sẻ với tha nhân.

Việc phát triển đời sống tâm linh cũng cần nhiều nỗ lực và tự nguyện như là trong công việc nghề nghiệp thế sự, và chúng ta cần duy trì sự quân bình khôn khéo cho cả hai. Dĩ nhiên, chúng ta cần duy trì công ăn việc làm để hỗ trợ bản thân và môi trường quanh ta. Nhưng thường các hoàn cảnh bên ngoài do chúng ta tạo dựng nên không mang hạnh phúc đến cho đời sống nội tâm. Thực vậy, một khuynh hướng thuần vật chất, dù thành công đến đâu đi nữa, cũng có thể là một cản trở thật sự cho những nhu cầu sâu xa hơn của ta. Chúng ta chỉ có thể vui hưởng một đời sống hạnh phúc nội tại khi có thể bỏ công sức quán tưởng về các kinh nghiệm tâm linh của bản thân, và biết tạo không gian để tích lũy tài sản tâm linh, loại tài sản thứ hai mà tựa đề của kinh nhắc đến.

Tín Tâm Và Tự Tin

Tài sản tâm linh đầu tiên mà Đức Phật nói đến là lòng tin và tự tin (tín tài). Đa số chúng ta cần một đối tượng cho lòng tin, và đối tượng này thường là một hay nhiều người, có thể cũng không toàn hảo giống như ta. Lòng tin thành hình một cách tầm thường như thế, chứ không phải đặt căn bản trên tâm linh, thì không thể tránh khỏi thất vọng.

Chúng ta chỉ có thể tin vào những gì ta yêu thương. Chúng ta cần một lý tưởng mà mình có thể yêu thích, nhưng cũng phải là một lý tưởng có thể vạch rõ cho ta thấy còn có một cái gì nữa vượt trội hơn đời sống thế tục. Tất cả chúng ta quá quen thuộc với những giá trị nhị nguyên vốn đã có sẵn trong chốn thị trường: khi đi mua bán, chúng ta muốn thu lại cái gì đó tương đương với số tiền đã trả ra. Nhưng vì thái độ mà chúng ta mang đến thị trường luôn là cái tâm anh-tôi, do đó phân chia giữa ta với người, khiến ta luôn cũng cảm thấy bị đe dọa, không bao giờ được an toàn. Chúng ta nghĩ rằng mình có thể mua được sự an toàn, nhưng cái cảm giác an toàn không thể mua được. Đến một mức độ nào đó, chúng ta cần nhận thức rằng lề lối suy tư mua bán này, lề lối thường tình của thế gian, chỉ có thể là căn bản cho sự sinh tồn tối thiểu, và chúng ta là những con người có thể vượt lên trên mức sinh tồn này. Nếu chúng ta có thể nhận thức được rằng trong ta đã có sẵn tiềm năng ý thức được một lý tưởng cao cả hơn, một lý tưởng mà ta có thể yêu thương và tin tưởng, thì ta cũng sẽ có được sự tự tin để phát triển những phẩm chất nội tâm giúp chúng ta thể hiện được tiềm năng đó.

Tìm an lạc và hạnh phúc nội tâm trong đời sống thế tục là điều không tưởng. Chúng ta được hòa bình khi không có chiến tranh, và hạnh phúc khi có những sự giao tiếp thoải mái. Nhưng bản chất của các cảm giác dễ chịu thường ngắn ngủi, và luôn cần được làm mới lại. Ngược lại với tài sản phong phú của đời sống tâm linh, chúng ta có thể luôn mang theo mình. Bản chất của nó là luôn luôn cống hiến một cái gì đó cho cuộc sống của ta, bất kỳ ta là ai; và cũng không ai có một đời sống tâm linh giống ai. Một khi chúng ta bắt đầu thấy được điều này, tài sản tâm linh sẽ thay thế cho của cải trên thế gian, trở thành mục đích sống của ta.

Lòng tin và sự tự tin đòi hỏi ta phải biết trân quý con đường tiến hóa tâm linh, để đặt hết lòng tin vào đó, và để khám phá nó ngay nơi bản thân. Chúng đòi hỏi sự ý thức rằng ta có thể hoàn toàn hiến mình cho con đường đó, hoàn toàn chuyển đổi chúng ta về hướng đó. Dĩ nhiên, lòng tin và sự tự tin cũng là những phẩm chất nội tại cần thiết, tương quan đến tiềm năng phát triển tâm linh của chúng ta. Vì thế có thể ta cần phải thay đổi bất cứ những gì cần thiết để đặt giá trị tâm linh lên trên đời sống thế tục hằng ngày, nhưng không nhất thiết là phải bỏ việc làm hay bán nhà đi. Sự trưởng thành xảy ra bên trong ta.

Lòng tin và sự tự tin đòi hỏi một sự tự nguyện buông xả hoàn toàn. Không có sự tự nguyện này thì không thể có thiền định; khi thiền quán chúng ta sẽ tiếp tục bám víu vào quá trình tư duy như là một thành lũy cuối cùng hỗ trợ cho cái ngã. Tự nguyện hướng đến một lý tưởng tâm linh, một sự thật tối thượng, để vượt qua được thân phận con người chỉ có thể có được với lòng tin và tự tin. Trong thiền định ta có thể dễ dàng tin cậy vào hơi thở của mình -suy cho cùng, chúng ta đã biết nó qua bao thập niên rồi. Nhưng tại sao việc quên mình đi để chỉ nương theo hơi thở của chính mình vẫn còn quá khó khăn? Chúng ta sợ phải buông bỏ tư duy vì khi không tư duy, ta không ý thức được sự hiện hữu của chính mình.

Lòng tin, và trên tất cả là lòng tin nơi bảy tài sản, mở cánh cửa vào đời sống tâm linh, vì lòng tin cho ta thấy một cái gì cao cả hơn. Mỗi người đều chứa kho báu này bên trong mình. Đã bao lâu nay lòng tin ấy bị chôn vùi trong sự suy tư tiêu cực, lòng tham và thù hận -có thể nói là một đống gạch vụn. Nhưng ta có thể thu dọn đống gạch vụn này, mở cánh cửa này ra qua thiền định và từ đó làm hiển lộ những lớp tư tưởng mới, trong đó có sự yêu thương biểu lộ qua lòng tin và sự tự tin. Trong khi cả hai, khối óc và con tim đều cần thiết, nhưng lòng tin và sự tự tin nói chung là vấn đề của con tim.

Nếu không đặt lòng tin và tự tin vào điều gì, thì tâm ta không cảm thấy gắn bó. Chúng ta sẽ thấy mình khập khểnh bước tới, trên một chân của tri thức, và sẽ không tiến được xa lắm. Tri thức giúp chúng ta hiểu, nhưng chỉ có tâm mới có thể chiêm nghiệm, và những điều Đức Phật dạy cần được chiêm nghiệm, chứ không chỉ để hiểu mà thôi. Lòng tin gắn bó với tiềm năng của tâm, nơi các quan điểm và ý kiến của ta không còn quan trọng nữa. Chúng ta tự tin vào một lý tưởng. Không cần phải đặt tên cho nó, chúng ta có thể cũng không biết nó là gì, nhưng trong thâm tâm ta biết có một cái gì đó cao hơn, một cái gì đó vượt lên trên những vấn đề thế sự. Phần lớn chúng ta, khi quán sát nội tâm, khám phá ra sự khát khao cho một cái gì đó không thể diễn tả được, và trong quá trình tìm kiếm điều đó, ta thường bị sai lệch hay đi lầm hướng, trước khi ta ý thức được rằng chỉ có thể tìm thấy điều đó trong nội tâm mình.

Tư Cách Đạo Đức

Tư cách đạo đức (giới tài) là tài sản thứ hai, tương quan đến ngũ giới. Các giới này tạo căn bản chủ yếu cho một đời sống hài hòa. Nếu sống với giới luật như thế mỗi ngày, chúng ta sẽ không gặp phải những khó khăn có thể làm lụn bại sự tu tập tâm linh của mình.

Giới đầu tiên là không sát sinh. Điều này bao gồm tất cả sinh linh, bất chấp lớn nhỏ. Giới này nhằm mục đích làm giảm bớt và bứng tận gốc rễ của sân hận trong chúng ta, để dần đưa đến sự loại trừ tất cả mọi tiêu cực đối với bất cứ điều gì. Điều này không có nghĩa là chúng ta sẽ không phân biệt giữa tốt và xấu. Chúng ta vẫn biết được tốt và xấu, nhưng ta hiểu rằng mình không có quyền phán đoán tha nhân. Bổn phận của chúng ta không gì khác hơn là đạt được giải thoát bằng cách diệt trừ mọi uế nhiễm.

Chức năng của giới này không chỉ làm giảm bớt đi lòng sân hận trong ta, mà đồng thời còn phát triển tình yêu thương vô điều kiện. Những ý tưởng chúng ta có về tình yêu thương luôn gắn liền với bao phiền não –không những vì chúng ta bị ràng buộc, mà còn vì tâm đổi chác làm điên đảo chúng; khi cho đi là chúng ta muốn nhận lại một cái gì đó. Cách suy nghĩ này thật là lầm lạc: bản chất của tình yêu thương là giải phóng, không phải để ràng buộc, và không chứa đựng sự sợ hãi. Tình yêu thương chỉ có một mục đích: trao tặng, và với thời gian chúng ta sẽ hiểu điều này, tình yêu là một phẩm chất của con tim, nó không tùy thuộc nơi người nhận, nhưng tùy vào khả năng ban tặng bất chấp người nhận. Từ khía cạnh của tình yêu thương, việc người này thay vì người khác được nhận chỉ là việc ngẫu nhiên. Thật ra việc tình thương yêu có được biết đến hay mong đợi –hay ngay cả có ai nhận nó hay không, cũng không quan trọng lắm.

Nếu thông minh là khả năng của tri thức, thì tình yêu thương là khả năng của con tim. Nhưng trong lúc phần lớn các học viện đề cao sự huấn luyện tri thức, thì ta lại không có những cơ sở giáo dục dạy về sự phát triển phẩm chất của con tim. Chúng ta mong muốn tình yêu thương đến một cách tự nhiên. Nhưng không có gì xảy ra một cách tự động; ngay cả những tiến trình tự nhiên như là thở cũng lệ thuộc vào sự hỗ trợ của một số điều kiện tương ứng nào đó. Suy nghĩ rằng tình yêu thương tự nó có thể điều chỉnh là một hư cấu của trí tưởng tượng, không đem lại gì khác hơn là phiền não, rắc rối. Tuy nhiên, chúng ta có thể sử dụng tình yêu thương mà chúng ta biết như là một vườn ươm hạt giống, và cố gắng tạo ra kinh nghiệm của tình yêu vô điều kiện từ kinh nghiệm của tình yêu có điều kiện. Làm được như vậy, chúng ta cũng huân tập để giảm bớt tâm sân hận. Chữ ‘sân hận’ ở đây là chỉ chung cho tất cả mọi sự tiêu cực, cùng với những lời chối lỗi, biện minh mà chúng ta dùng để bênh vực nó.

Không nên coi gíao lý của Đức Phật như là lý thuyết tâm lý, tâm lý liệu pháp, hay là chuyên luận về triết lý, mà là những lời dạy thực tiễn đưa ta tới hạnh phúc và an lạc nội tâm. Ngày nào chúng ta còn lệ thuộc nơi các điều kiện bên ngoài hay nơi người khác, chúng ta vẫn không được tự do. Khi còn phải lệ thuộc vào những gì xảy ra theo ý mình, chúng ta khác gì những tên nô lệ. Chúng ta chỉ có thể vượt khỏi sự ràng buộc này khi đã thanh lọc bản thân và phát triển các tiềm năng của tâm đến mức chúng có thể tự hỗ trợ cho nhau. Sự độc lập này là khởi điểm của sự giải thoát, nơi ta có thể nhìn thấy được bóng dáng của giải thoát thực sự.

Ai cũng có khả năng yêu thương, nhưng phần lớn chỉ phát triển nó đến một mức độ giới hạn bằng việc tùy thuộc vào đối tượng có dễ thương không, hay tình thương yêu đó có được đáp trả không. Có người lại còn nghĩ rằng mình không có tiềm năng đó. Thật ra, ai cũng có khả năng yêu thương, nếu họ biết cách phát triển nó. Dĩ nhiên, sẽ dễ có cảm giác yêu thương khi đối diện với một người đẹp và đáng yêu, nhưng cảm giác đó là cảm giác tùy thuộc, và Đức Phật dạy rằng về phương diện này chỉ có sự độc lập mới đưa chúng ta cuối cùng ra khỏi khổ đau, khỏi tiếc nuối.

Giới thứ hai là không lấy của không cho. Đối nghịch với trộm cắp là tính hào phóng hay mở rộng vòng tay vị tha mà tự nó là một trong bảy tài sản sẽ nói đến sau. Câu nói ‘ta được nhiều khi cho hơn khi nhận,’ rất nổi tiếng nhưng thật sự mấy ai thực hành vì tin như vậy. Ai thật sự làm theo những câu châm ngôn như thế trong đời sống hằng ngày? Thường thì chúng ta không nghĩ đến điều này, vì biết và thực hành là hai cực đối nghịch. Tuy chúng ta có thể có sự hiểu biết lý thuyết, ta không biết rằng mình ít khi áp dụng nó. Kiến thức tuy hữu dụng, và được coi như là một trong bảy tài sản -sự thực tập thật sự chỉ bắt đầu khi chúng ta có thể biến những tài sản này thành của mình. Chúng ta phải làm việc mỗi ngày để kiếm sống, và với đời sống tâm linh cũng phải thế. Chúng ta cũng phải hằng ngày quán sát bản thân để khám phá ra những tài sản nội tâm này.

Giới thứ ba là không tà dâm. Đối nghịch với tà dâm là trung thành, có trách nhiệm, và đáng tin cậy -kể cả trung thành với bạn bè và gia đình. Nói chung, giới này đòi hỏi ta phải sống thế nào để không làm ai đau đớn về tinh thần, hay thể xác. Nguyên tắc không làm khổ hại ai dựa trên nền tảng của sự vun trồng tình yêu thương, nhưng cũng như giới thứ hai, giới này cũng nhắm vào việc giảm thiểu tham dục –trong ý nghĩa của bất cứ những gì có liên hệ đến sự mong cầu và tham muốn của chúng ta. Lòng tham muốn sở hữu mang đến cho ta bao rắc rối, khó khăn, đồng thời khiến ta chìm đắm trong tâm trạng bất an. Một khi chúng ta muốn cái gì, sẽ không bao giờ có đủ, vì chúng ta bám víu vào nó. Chúng ta muốn tiếp tục được có nó hay có nó mãi, điều này thật là một sự phí phạm năng lực. Dầu cùng nguy hại như nhau, lòng tham dục khó nhận biết hơn là sân hận.

Khi chê trách, tránh né hay phản kháng một điều gì, chúng ta có thể -nếu chú ý cẩn thận- nhận biết một cảm giác khó chịu không thể nhầm lẫn. Tuy nhiên, tham muốn lại hứa hẹn một sự hài lòng, vì chúng ta tưởng tượng rằng một khi mong ước của mình được thỏa mãn, tất cả mọi thứ đều sẽ êm đẹp. Đến một lúc nào đó, chúng ta ý thức rằng những gì chúng ta mong cầu đều không phải đúng là vật ta muốn, không phải là điều đem đến cho ta sự thỏa mãn tuyệt đối thì lòng tham muốn của ta lại chuyển qua đối tượng khác. Cứ như thế, chúng ta bị mắc vào cái bẫy của sự bất an không dừng dứt, một sự lo âu liên tục không biết mình sẽ được những gì mình muốn hay không và không biết mình có nắm giữ được nó mãi không. Khi điều không thể tránh xảy ra và ta mất nó, cái vòng tham muốn lại tái diễn.

Để nhận diện được mô thức này chúng ta cần có chánh niệm ở một mức độ nào đó. Những tài sản này chỉ có thể được nhận biết khi chúng ta chú tâm đến bản thân. Chánh niệm tuy không được coi như một trong bảy tài sản này, nhưng nó là điều kiện tiên quyết cho con đường tâm linh. Không có cái nhìn quán chiếu, chúng ta sẽ không thể khám phá ra được kho báu bên trong.

Giới kế tiếp liên quan đến việc nói sai sự thật và dùng ác ngữ. Bao gồm bất cứ loại ngôn từ nào có thể gây não hại, chê trách điều gì một cách bất nhã, phơi bày ác ý, và cả những lời thị phi, chuyện trò vô bổ. Đối nghịch lại là nỗ lực thanh lọc ý để có được những lời nói chân thật, hòa nhã. Điều kiện tiên quyết để làm được như thế là phải chánh niệm về nội dung tư tưởng của mình. Khi bắt đầu thiền định chúng ta ý thức được ngay là tâm ta nghĩ tưởng ra bao điều không thật có, đôi khi rất quái dị, không ích lợi và không đưa đến đâu cả - chỉ là bao ý nghĩ, và mộng tưởng vô dụng. Nhận thức được điều này sẽ giúp ta loại được những tư tưởng xấu trong đời sống hằng ngày dễ dàng hơn, hay biến chúng thành những tư tưởng tốt. Nếu chúng ta muốn theo con đường tâm linh, sự thực tập chánh niệm là điểm khởi đầu ích lợi nhất.

Lời Đức Phật dạy về 'tứ chánh cần' có thể được nhớ đến một cách dễ dàng qua công thức xúc tích sau đây: ‘ngăn ngừa, chế ngự, phát triển, duy trì’ – nhưng dĩ nhiên, thực hành được chúng lại là một điều khác. Trước hết nó nhắc nhở ta làm thế nào để không cho các tư tưởng xấu có cơ hội phát khởi. Nếu chúng đã có mặt thì phải kiềm chế chúng, bằng cách thay thế chúng với các tư tưởng thiện. Nếu các thiện ý chưa phát khởi, phải tạo ra chúng. Và thứ tư, nếu các thiện ý đang có mặt, phải duy trì chúng.

Khi bắt đầu thực hành tứ chánh cần, chúng ta không còn buông thả tư tưởng của mình như trước. Chúng ta không còn thật sự tin cậy những tư tưởng của mình, và chúng ta kiểm nhận cẩn thận xem chúng là tốt hay xấu, khéo hay vụng. Điều này lúc đầu khó làm nhưng sau một thời gian nó đến một cách tự nhiên, và nó trở nên rất rõ ràng là ta có thể thay thế các ác ý bằng thiện ý, kết quả là tâm được tĩnh lặng.

Các tư tưởng tiêu cực, uế nhiễm đem lại sự bất an, nặng nề cho tâm, và nếu chúng ta muốn có một đời sống tâm linh hài hòa, thì quan trọng là ta phải quán sát các trạng thái tâm linh để có thể khiến chúng hiển bày, nếu không, sự hăng say của ta, ngay cả ở mức độ tâm linh, chỉ đưa đến mộng tưởng và cao vọng. Hơn bao giờ hết, sự thanh lọc tâm có thể giúp ta chế ngự được những bấn loạn của tâm.

đối thoại là một tiến trình tức thời, chúng ta thường không ý thức được lời nói đến từ tư tưởng, vì vậy điều kiện tiên quyết để giúp ta giữ được giới thứ tư là sự chánh niệm quán sát các tư tưởng và hành động thông thường của ta.

Giới thứ năm là về việc không uống rượu và sử dụng ma túy vì chúng chỉ làm cho đầu óc ta thêm xáo trộn. Nói rõ hơn, giới này nhắc ta thực hành chánh niệm trong đời sống hằng ngày. Khi luôn quan sát bản thân, ta sẽ hiểu mình rõ hơn, sâu sắc hơn, rồi dần dần ta sẽ có thể nhìn thấy được chân lý tuyệt đối của sự hiện hữu. Chúng ta có rất nhiều ảo tưởng về ta là ai - những ý tưởng này duy trì ảo tưởng rằng chúng ta là một ai đó đặc biệt, hư cấu rằng chúng ta luôn đổi mới do chấp ngã. Tuy nhiên nếu quán sát sâu sắc hơn, ta sẽ nhận thức được mình thật sự là ai.

Chánh niệm trong đời sống hằng ngày bắt đầu với sự quan sát những chuyển động nơi thân, các cảm giác, trạng thái, và tư tưởng. Sự chánh niệm của ta có thể dễ dàng bị xao lãng, nhưng khi ta nhận biết được điều này thì ta có thể trở lại với chánh niệm. Vấn đề là ta phải huân tập làm sao để cẩn trọng hơn với tâm, việc này cũng tương tự như khi chúng ta học cách chăm sóc cơ thể của mình - ta không muốn có tai nạn, hay chỉ trầy da thôi – do đó ta cần suy nghĩ, nói năng, và hành động một cách thận trọng, để tâm ta không bị tổn thương.

Hành vi đạo đức là một phần rất quan trọng và sâu xa trong gia tài nội tâm của ta. Không những chúng ta nhận biết được các tiêu chuẩn phải theo để bảo vệ bản thân, mà sự hành trì giới luật cũng mở ra các cơ hội để phát triển thiện xảo của hai tài sản kế tiếp, sự biết hổ thẹn và sự sợ bị thiện tri thức khiển trách.

Hổ Thẹn

Sự hổ thẹn (tàm tài) và sợ bị thiện tri thức quở trách được coi là những hộ vệ của cuộc đời, vì sự cảm nhận về lễ nghi, phép tắc và sự sợ bị người tốt khiển trách không cho phép chúng ta làm việc xấu. Nếu các lễ nghi, phép tắc căn bản không còn, như trong thời chiến hay dưới các chế độ độc tài, thì kết quả là đạo đức bị đảo lộn, ảnh hưởng đến tâm trí của cả một dân tộc nói chung - dầu trong những hoàn cảnh như thế, mỗi cá nhân vẫn phải có trách nhiệm, có lương tâm đạo đức. Vậy thì sự biết hổ thẹn là người bảo vệ cho cả cộng đồng và cá nhân không rơi vào sự đổ vỡ đạo đức quá mức tệ hại.

Không có ai có thể sống không có sự hỗ trợ của tha nhân. Đôi khi chúng ta cần nên hỏi: ‘Thức ăn của tôi từ đâu đến? Ai xây lên nhà tôi? Ai làm ra áo quần tôi mặc? Thư từ đến tay tôi bằng cách nào? Là một thành viên trong cộng động, tôi phải làm gi?’ Trả lời những câu hỏi trên chúng ta có thể thấy không ai có thể hoàn toàn sống một mình. Tất cả chúng ta không thở cùng một bầu không khí sao? Tất cả chúng ta không tùy thuộc vào cùng một thế giới thiên nhiên sao?

Dĩ nhiên điều ngược lại cũng đúng. Khi chúng ta nói rằng một người làm điều xấu là mang vết nhơ ấy vào cuộc sống và làm ô nhiểm môi trường, chúng ta muốn nói đến sự tương quan giữa tất cả. Chúng ta chỉ cần nhớ đến bất cứ biến cố nào đã gây thiệt hại đến nhân mạng. Môi trường có thể bị ô nhiễm bởi tư tưởng của chỉ một người hay một nhóm người nhưng hằng triệu người phải đau khổ gánh chịu; ví như cuộc thế chiến vừa qua.

Tuy nhiên, sức mạnh của điều thiện cũng mãnh liệt như việc ác, và với tàm tài (tài sản của sự biết hổ thẹn) chúng ta có thể phấn đấu để tự hoàn thiện bản thân và tạo được ảnh hưởng chống lại cái xấu. Vì không sống cô lập nên mỗi chúng ta mang một trách nhiệm phải nuôi dưỡng và duy trì điều thiện bằng tư tưởng và hành động. Điều ác có thể áp đảo cuộc sống bằng nhiều cách, ở nhiều thời điểm khác nhau, nhưng điều thiện vẫn trụ thế, nếu không chúng ta đã bị tiêu diệt từ lâu rồi. Luôn có bao người làm điều thiện trong cuộc sống này.

Cảm nhận về nghi lễ, phép tắc bảo vệ chúng ta và cuộc sống khỏi bao uế nhiễm. Người có phẩm cách không bao giờ ra đường với mặt mày và áo quần dơ dáy. Nếu có, chắc chắn là họ sẽ lập tức làm gì đó để sửa đổi - quay về rửa ráy và thay áo quần sạch sẽ. Chúng ta cũng phải biết hổ thẹn với cái xấu, với những tư tưởng tiêu cực giống thế và sửa đổi ngay tức khắc.

Nếu chúng ta có thể nhờ chánh niệm mà ý thức được rằng không ai có thể sống tách biệt, thì ta sẽ dễ dàng thấy mình có trách nhiệm với cuộc sống. Mỗi chúng ta đóng một vai trò quan trọng trong chuổi sự kiện phức tạp quyết định cách thế giới này vận hành. Giữ được năm giới này đương nhiên sẽ giúp chúng ta sống theo đạo đức để không phải cảm thấy hổ thẹn hay nuối tiếc. Trái lại, chúng ta sẽ vui sướng biết rằng mình đã làm tròn bổn phận.

Trong một bài giảng khác nói về kết quả của đời sống đạo đức, sự không tiếc nuối được nhắc đến như là một trong những điều kiện để đi suốt con đường tâm linh. Chúng ta sẽ không nuối tiếc, hối hận khi đã thanh lọc tư tưởng và lời nói. Nếu cư xử không phải đạo, hiển nhiên ta sẽ cảm thấy hối hận; không biết hỗ thẹn không phải là cách giúp ta thoát được sự hối hận. Ngược lại, nuối tiếc chuyện quá khứ cũng không khôn ngoan chút nào. Chúng ta phải tự nhắc nhở mình rằng người làm điều sai bậy trong quá khứ không phải là người đang ăn năn -nếu ta đã biết sống tỉnh thức như hiện tại, thì ta đã không làm điều sai quấy. Thay vì than khóc chuyện đã qua, ta nên tha thứ con người quá khứ của mình mà bắt đầu lại. Mỗi ngày là một bắt đầu mới. Làm khổ mình bằng cách tự trách sẽ chỉ khiến ta khó bước chân lên con đường tâm linh.

Sự Sợ Bị Trách Móc

Cùng với tài sản của sự biết hổ thẹn hay của nhân phẩm là sự lo sợ bị thiện tri thức phê phán (quí tài). Sự sợ bị trách móc là một sự sợ hãi lành mạnh: sợ làm điều gì không đúng. Điều này hoàn toàn hợp lý vì chúng ta luôn bị lôi cuốn để cho sân hận hay ái dục phát sinh mà không kể đến hậu quả của chúng. Khuynh hướng hay rơi vào tiêu cực này rất vi tế khiến ta không nhận ra điều đó, mà tin rằng các chủ định của ta có thể chấp nhận được. Do đó đi đôi với sự biết hổ thẹn là ý thức về nhu cầu hành trì chánh niệm.

Sự sợ làm điều sai quấy cũng phát sinh khi chúng ta ý thức được mình là đối tượng của luật nghiệp quả. Mọi người đều biết một câu từ kinh Tân Ước: ‘Bất cứ ta gieo gì, ta sẽ gặt nấy’, nhưng liệu ta có thật sự hiểu ý nghĩa của câu này khi thực hành? Nghiệp, hay sự giải thích của lý nhân quả trên bình diện đạo đức là nền tảng của Phật giáo. Sự sợ không dám làm điều ác căn cứ trên sự hiểu biết là chính mình chứ không ai khác sẽ lãnh hậu quả. Chúng ta không nên trốn tránh sự hổ thẹn và trách nhiệm; chúng là người bảo vệ, ngăn cản ta khỏi rơi vào những hoàn cảnh khó khăn, phiền não trong cuộc đời.

Không có gì có thể bào chữa được cho những hành động bất thiện. Hoàn cảnh khó khăn phải là động lực giúp ta tu tập. Giả sử chúng ta đang tức giận ai: tâm sân hận này não hại chính ta hơn là người bị giận – và đối với tất cả mọi ý tưởng tiêu cực khác đều giống như thế, không kể đó là cao ngạo, ghen tị, đố kỵ, hoặc là tính hay đổ lỗi cho người khác. Nhưng sự tiêu cực cũng có thể làm não hại người khác nếu chính họ cũng phản ứng lại với những cảm giác tương tự; trong trường hợp đó họ cũng tạo nghiệp xấu. Ta cũng có thể tạo ra sự tiêu cực nơi tha nhân mà không ý thức được. Đức Phật đã nói, ‘Này các tỳ kheo, hãy ghi nhớ lời ta, nghiệp bao gồm chủ định’, nhưng con đường tâm linh đòi hỏi trước tiên là ta phải chịu trách nhiệm về tư tưởng, lời nói và hành động của ta. Nếu không khóa xe, ta tạo cơ hội cho người ăn cắp, đối với đời sống tâm linh cũng thế: chúng ta nên tránh tạo cơ hội cho người khác gây nghiệp xấu.

Kiến Thức

Tài sản kế là kiến thức (văn tài). Đức Phật đã để lại một di sản có thể đưa chúng ta đến an lạc và hạnh phúc hoàn toàn, nhưng trước khi có thể khởi sự bước đi trên con đường này, chúng ta cần hiểu thêm về nó. Chúng ta cần biết các phương pháp và giáo lý của Đức Phật. Tiếc thay, chúng ta đã có quá nhiều dữ liệu trong đầu đến nỗi khó mà tiếp thu thêm cái mới. Thêm nữa, chúng ta thường ngay tức khắc so sánh các dữ liệu mới với những gì mình đã biết, xem coi chúng có ăn khớp với nhau không. Sự so sánh và đánh giá này, dựa trên quan điểm riêng của ta, thật sự không đưa đến đâu cả. Thay vào đó, ta nên có chút lòng tin nơi giáo lý này, thử nghiệm nó, xem nó ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào. Nếu không có hiệu quả, chúng ta có thể tìm phương cách khác, nhưng nếu chỉ so sánh trên khía cạnh thuần tri thức, theo sách vỡ thôi là sai lầm. Sự so sánh như thế chỉ có giá trị và ích lợi khi ta đã đi trọn vẹn con đường cho đến đích. Chỉ từ cái nhìn của sự Giác Ngộ và tỉnh thức tột cùng con người mới có thể thấy được những con đường khác đưa đến cùng cứu cánh. Trước khi đạt đến điểm này, sự tiếp thu các thông tin mới chỉ là tri thức.

Kiến thức thu thập được từ giáo lý của Đức Phật, một khi đã nhập tâm rồi, có thể đem ra thực hành ngay, nếu như chúng ta có thể nhớ. Tâm trí ta thường quá bận rộn với thế sự nên hoàn toàn quên việc tâm linh, thế nên chúng ta cần luyện tâm trí trong đời sống hằng ngày. Một trí nhớ tốt rất ích lợi cho ta, nếu không, thì viết ra giấy cũng tốt – ví dụ như, viết ra ‘ngăn ngừa, chế ngự, phát triển, duy trì’ – và dán lên nơi nào đó. Bất cứ khi nào nhìn thấy những chữ đó, chúng ta sẽ được nhắc nhở để ngăn ngừa và chế ngự cái xấu, để phát triển và duy trì điều thiện. Dĩ nhiên, lắng nghe các bài pháp thoại và ghi chú cũng tốt, cho đến khi mọi thứ đã khắc sâu vào tâm trí để ta có thể hiểu và thực hành giáo lý của Đức Phật một cách hiệu quả.

Bố Thí

Tài sản kế chót, bố thí (tài thí), bổ sung cho giới thứ hai: không lấy của không cho. Bố thí –cho mà không nghĩ đến việc nhận lại- thường được Đúc Phật đặt lên hàng đầu trong các loại công đức. Đối nghịch với bố thí là vị kỷ hay thói coi mình là trung tâm của vũ trụ, biểu lộ qua lòng tham muốn sở hữu cho riêng mình và tỏ ra bực tức nếu có người muốn lấy gì của mình. Sự vị kỷ này là nguồn gốc của tất cả mọi khổ đau của chúng ta: nếu không có cái ngã này thì có ai để khổ đau? Do đó tất cả giáo lý của Đức Phật đều hướng về sự nhận thức được ảo tưởng tạo ra từ sự quan trọng hóa bản ngã của mình. Bằng cách phát huy tâm bố thí rộng rãi, chúng ta sẽ loại bỏ được lòng vị kỷ.

Sự thực tập chúng ta đang nói đến liên quan đến nhiều thứ hơn là làm giảm thiểu những hành động đầy chấp ngã. Một người độ lượng, rộng rãi không chờ đến lúc có người mong đợi quà tặng từ họ, ví dụ như trong một dịp đặc biệt nào đó, hay đến khi được hỏi mới nghĩ đến việc bố thí. Trong xã hội chúng ta, phần lớn ai cũng có nhiều hơn họ cần, nên không khó để tìm những món vật chất để cho - nhưng cũng vì vậy nên khó mà cho được những món quà vật chất có ý nghĩa. Trong kinh này Đức Phật nói rằng lý do chánh đáng duy nhất để duy trì của cải là để chia phần với người. Dĩ nhiên, còn tùy từng cá nhân làm thế nào để quản lý của cải và muốn cho bao nhiêu, nhưng sự chia sẻ như thế phải thực sự hiệu quả: không nên chỉ là bố thí của cải cho người nghèo. Ngay nếu như không có của cải, chúng ta vẫn có thể chia sẻ nhiều thứ khác được: thì giờ, năng khiếu, tình thương yêu, hạnh lắng nghe. Năng lượng của chúng ta ít ra cũng đem lại lợi lạc cho tha nhân không kém gì tiền bạc.

Theo Đức Phật, còn có một điều đáng quan tâm nữa: đó là sự trong sáng của người nhận làm thanh lọc vật cho. Sự bố thí cần phải thích đáng, biểu hiện sự quan tâm đến người nhận và nhu cầu của họ. Sự phán đoán thường dễ biến thành lòng thương hại, và lòng thương hại, nói đúng ra, không phải là một cảm xúc tích cực hay trong sáng.

Chúng ta có thể bố thí từ lòng trắc ẩn, lòng độ lượng, hay từ sự mong muốn tạo được nghiệp tốt, nhưng tâm bố thí chân thật phát xuất từ sự nhận thức được rằng tất cả chúng ta đều là thành phần của cùng một thực tại, là những biểu hiện của hiện hữu. Điều này khó ý thức được vì cái ảo tưởng rằng tất cả chúng ta đều tách biệt, nhưng trong thực tế, không có gì tách biệt với bất cứ cái gì khác. Nói một cách đơn giản, nếu chúng ta làm cho một người hạnh phúc, chúng ta làm tăng thêm hạnh phúc cho cuộc đời. Tất cả chúng ta đều có khả năng -thật ra, là trách nhiệm- ban trải hạnh phúc khắp nơi.

Hơn thế nữa, bố thí phải hoan hỷ. Có người gây nhiều bất mãn với những hành vi, ý nghĩ, quan điểm phô trương mà họ cố bắt người khác chấp nhận. Nhưng ta có thể giúp đỡ những người như thế bằng cách nhắc họ rằng làm điều tốt nhất thiết phải với niềm vui. Tất cả chúng ta đều cần được động viên để hướng đến điều thiện; vì tiếc thay, điều này không tự động xảy ra. Mỗi người sanh ra với ba gốc rễ tốt và ba gốc rễ xấu, tất cả đều biểu lộ bằng cách này hay cách khác, và chúng ta luôn cần nỗ lực để tăng cường các gốc rễ tốt thay vì xấu. Gốc rễ xấu chính là vô minh, trong ý nghĩa rằng ta bị ảo tưởng về bản ngã dẫn dắt với niềm tin rằng ‘tôi là một ai đó’. Từ gốc rễ này phát sinh hai rễ xấu khác là tham và sân. Ba gốc rễ tốt là khả năng được trí tuệ, tình thương yêu, và độ lượng.

Qua sự chia sẻ tài sản vật chất bên ngoài, chúng ta sẽ cảm nhận được tài sản nội tại của tâm bố thí. Thực vậy, nỗ lực của chúng ta trong việc hành trì tất cả bảy loại tài sản đưa đến nhiều kết quả tích cực đến nỗi tài sản nội tâm trở nên đáng giá hơn bất cứ tài sản thế tục nào. Một khi đã cảm nhận được hoàn toàn giá trị của những của cải này, chúng ta sẽ không thể nào đánh mất niềm vui nội tâm, trong khi đó ngay cả người giàu có nhất cũng không thể kéo dài thú vui nghiền ngẫm các sổ tài khoản của mình - vì chắc rằng người đó đang lo lắng cho sự trồi sụt giá cả của các chứng khoán của mình. Trong khi chúng ta thì lại có thể tích lũy tài sản nội tâm, đồng thời cũng có thể chia sẻ chúng với tha nhân. Không ai có thể lấy mất tài sản này. Có lẽ điều tốt đẹp nhất chúng ta có thể chia sẻ được là niềm hỷ lạc mà đời sống tâm linh mang lại, điều này chắc chắn sẽ giúp khuyến khích người khác để họ tự tìm đến niềm vui này.

Có thể nói rằng hạnh bố thí, đứng đầu trên mọi đức hạnh, khai mở các cánh cửa của những đức hạnh khác. Khi thật sự bố thí, chúng ta mở lòng với tha nhân; chúng ta không muốn gì cho bản thân. Chính yếu ở đây là ‘buông xả’; thật vậy, buông xả là chìa khóa để vào con đường tâm linh nói chung, và vào thiền định nói riêng. Những quan điểm chúng ta đã tích lũy và khăng khăng bám víu vào chúng cản ngăn không cho ta nhận thức được chân lý, và sự phát khởi lòng tham sân càng gây khó khăn cho việc tìm ra được chân hạnh phúc luôn có mặt bên trong ta.

Trí Tuệ

Tài sản cuối cùng trong số bảy tài sản là trí tuệ (tuệ tài), trong ý nghĩa đối nghịch với vô minh. Trí tuệ biểu thị sự chứng nghiệm trong hiểu biết, trí tuệ được chiêm nghiệm và cảm nhận trong tim ta. Để có thể hiểu được những điều chiêm nghiệm, chúng ta cần có kiến thức về con đường tâm linh và các giáo lý giảng dạy về con đường đó. Chúng ta hiểu được rằng qua sự vun trồng chánh niệm, chúng ta có thể chứng nghiệm được sự an lạc và thanh tịnh trong thiền định - bằng cách nhận biết được lòng tham, sân, cùng si mê vọng tưởng bên trong ta, và cố gắng loại trừ chúng.

Vậy thì kinh nghiệm thực chứng (understood experience) là bước đầu tiến đến trí tuệ, vì cả hai, sự chứng nghiệm và sự hiểu biết đều cần thiết trên con đường tâm linh. Đạt được kiến thức không khó. Chúng ta vẫn không ngừng thu thập kiến thức, từ mẫu giáo đến đại học, để vươn lên trong đời sống thế tục, nhưng không thể vì thế mà ta đến gần được trí tuệ hơn. Kiến thức của chúng ta về con đường tâm linh cần được đem ra thực hành trong suy tư, thảo luận và hành động hằng ngày. Chúng ta kinh qua và hiểu được con đường ấy nếu chúng ta tránh được sự ghét bỏ những điều ta không thích và sự bám víu vào những gì làm ta hài lòng. Chỉ khi đó chúng ta mới ý thức được những thói xấu của mình, và dựa trên đó cố gắng chuyển hóa chúng để chúng không còn cản trở bước tiến của ta nữa. Chính ngã chấp cản trở con đường tâm linh: Tôi muốn, tôi sẽ, tôi phải, tôi có thể, tôi nên, tôi muốn vứt bỏ cái này hay cái kia. Hãy buông bỏ quy định này để trở nên một quan sát viên trung lập của đời sống nội tâm của mình, rồi thanh lọc những điều xấu, đó là con đường tâm linh giúp phát huy trí tuệ.

Đọc (văn) và hiểu (tư) giúp mở các cánh cửa tâm linh, nhưng chúng không mang lại cho ta sự chứng nghiệm. Hiểu là một tiến trình của trí não; chứng nghiệm là tiến trình của tâm. Nếu hai điều này không đi đôi với nhau, chúng ta chỉ mới đi được nửa đường.

Nếu cả tâm và trí đều tham dự, chúng ta có thể phát triển một cái nhìn mới về cuộc đời và về chính mình, không còn nhìn cuộc đời qua cái nhìn hạn hẹp của tự ngã, nhưng nhìn nó như là một tổng thể. Thí dụ, nếu nói đến khổ đau hay dukkha, khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là phản kháng lại nó – và khi ta càng chống đối lại một điều gì, ta lại càng cảm thấy đau đớn hơn. Nhưng khi ta hiểu được rằng đau khổ là thường tình, ta sẽ không còn chống đối nó nữa. Kết quả là, khi chúng ta phát khởi lòng bi mẫn đối với bản thân và tất cả muôn loài, chúng ta không còn đau khổ như thế nữa.

Tiến trình này chỉ có thể được cảm nhận qua sự thực tập hằng ngày. Nếu muốn xây dựng đời sống của mình trên một nền tảng tâm linh thật sự, chúng ta phải hành trì chánh niệm mỗi ngày để có thể giúp phát sinh sự ‘chứng nghiệm trong hiểu biết’. Điều này lúc đầu có thể khó khăn, vì nó mới lạ, nhưng một khi chúng ta đã thực tập trong một thời gian, sống chánh niệm trở thành một việc tất nhiên. Suy cho cùng, sống chánh niệm như thế cũng giúp chúng ta tránh khỏi bao ác nghiệp.

Cuối bài kinh, câu kệ kết này tóm lược tất cả bảy tài sản:

Bất cứ ai sống đời đạo hạnh, với tự tin và lòng tin,
Biết sợ trách móc và có lương tri,
Tu tập tâm rộng lượng và kiến thức,
Với trí tuệ là tài sản thứ bảy –
Bất kỳ ai đã tìm được những tài sản này,
Dầu nam hay nữ,
Đều được coi như những người giàu có,
Họ không sống cuộc đời vô nghĩa.
Đó là lý do thiện hữu tri thức phải
Thực hành tự tin và trì giới,
Cũng như trí tuệ và tín tâm,
Sống chánh niệm với những lời Phật dạy.

-ooOoo-

 

Chương 6

Năm Phương Cách Để Đối Trị Sân Hận

Có năm phương cách để đối trị sân hận. Chúng giúp xóa tận gốc rễ của sân hận. Đó là gì? Nếu sân nổi lên, cần làm như sau: vun trồng tâm từ, vun trồng tâm bi, vun trồng tâm xả... . Đừng để ý, đừng quan tâm đến người đó. Nếu oán ghét nổi lên, hãy nhớ đến quy luật làm chủ hành động của mình, đó là: "Người làm hành động gì là chủ của hành động đó, sẽ thừa hưởng hành động đó, sẽ tái sinh từ chúng, bị bó buộc vào chúng, nương tựa nơi chúng, và những tốt, xấu người ấy đã làm sẽ là di sản của người ấy."

Anguttara-Nikàya V.161
(Tăng Chi Bộ – V.161)

*

Bất cứ ai đã kinh nghiệm trạng thái sân hận đều biết chúng khó chịu thế nào. May mắn thay, Đức Phật đã dành cho chúng ta những lời hướng dẫn rõ ràng về cách buông bỏ sân, cách sống sao để tránh sân hận, và Đức Phật đã truyền đạt lời dạy của mình bằng những câu chuyện để giúp chúng ta ghi nhớ những lời giáo huấn ấy.

Tất cả chúng ta đều biết tâm sân hận khó chịu thế nào, nhưng chúng ta lại thấy khó buông bỏ chúng, do đó lời dạy thực tiễn của Đức Phật thật rất hữu ích. Bài thuyết giảng đầu tiên, ngắn gọn về đề tài này được gọi là: "Năm Phương Cách Để Đối Trị Sân Hận”, và nó được nói như sau:

Có Năm Phương Cách Để Đối Trị Sân Hận.

Chúng giúp xóa bỏ mọi dấu vết của sân hận. Đó là gì? Nếu sân dấy khởi, đây là điều cần làm: Hãy vun trồng tâm từ, vun trồng tâm bi, vun trồng tâm xả.

Nhưng làm sao chúng ta có thể vun trồng những tình cảm này ngay ở giây phút ta đang cảm thấy sân hận? Nói cho cùng, từ, bi và xả là ba trong bốn tình cảm cao thượng nhất. Tình cảm thứ tư, hoan hỷ, không được nhắc đến ở đây có lẽ là vì hoan hỷ với người ta vừa cảm thấy sân hận là điều đòi hỏi quá sức, nhưng nếu chúng ta không thể thực hiện bất cứ một trong ba điều kể trên, thì còn có một cách thứ tư, đó là:

Đừng chú ý, đừng quan tâm đến người đó.

Nếu chúng ta nhận thức và chấp nhận rằng trong một số trường hợp, chúng ta không thể kiểm soát tình cảm của mình, không thể chế ngự sân hận, rằng chúng ta chỉ tự hại mình, thì chúng ta có thể ít nhất cố gắng không trụ tâm nơi đó. Chúng ta có thể tránh xa người đó hoặc làm gì khác cho đến khi cơn sân hận đã giảm xuống chút ít hay hoàn cảnh đã thay đổi đủ cho chúng ta có thể thực hành tâm từ bi trở lại.

Vào một dịp khác Đức Phật đã cho một thí dụ như sau: "Chúng ta nhìn thấy một người bạn ở bên đường, nhưng chúng ta không tiến bước về phía đó, bắt tay, thăm hỏi bạn; thay vào đó, chúng ta hành động như thể ta không nhìn thấy anh ta". Chúng ta ở phía bên nây đường vì chúng ta biết rằng gặp mặt người ấy chỉ khiến ta tức giận.

Phương cách thứ năm đặc biệt quan trọng:

Nếu sân hận dấy khởi, ta cần nhắc nhở tâm về điều luật mình làm chủ hành động của mình, đó là: "Người hành động là chủ của hành động mình, người đó phải thừa hưởng hậu quả hành động mình, người ấy sẽ sinh ra từ các hành động của mình, người ấy bị trói buộc vào chúng, nương tựa vào chúng, và bất cứ điều phải, điều trái nào người ấy đã làm, sẽ là điều người ấy phải nhận lãnh".

Làm chủ hành động của mình có nghĩa là làm chủ nghiệp của mình. Cách nhìn về nghiệp như thế -như là một sở hữu- rất thông thường, nhưng nó có thể cho ta một cái nhìn rất mực hữu ích. Nếu chúng ta giận dữ với ai vì họ đã làm điều bất thiện, chúng ta cần phải tự nhủ rằng tất cả mọi người đều lãnh nhận kết quả của sự chủ tâm của mình. Luật nhân quả áp dụng cho tất cả mọi thứ trong vũ trụ cũng như cho mỗi cá nhân. Những hành động có chủ tâm sẽ mang đến hậu quả mà ta không thể nào tránh né. Tuy nhiên hai người cùng thực hiện một hành động giống nhau có thể nhận lãnh những hậu quả khác nhau.

Đức Phật đã giải thích sự việc này bằng một thí dụ: "Nếu bạn bỏ một thìa muối vào một ly nước, nước đó sẽ không còn uống được. Tuy nhiên nếu bạn vãi muỗng muối đó xuống sông Hằng, thì nước sông này không thay đổi chút nào". Ly nước đem so sánh với sông -tượng trưng cho sự tích luỹ ít ỏi của các việc thiện: nếu chúng ta tạo thêm một bất thiện nào trên chỉ một ly đầy các việc thiện, chúng ta có thể biết là hậu quả sẽ nghiêm trọng thế nào. Tuy nhiên, nếu chúng ta có cả một con sông đầy các thiện nghiệp ở phía sau, thì chỉ một hành động bất thiện có thể không gây thiệt hại gì. Vì chúng ta không biết người khác đã làm gì, nghĩ gì trong quá khứ, dầu trong kiếp này hay trong các kiếp quá khứ, không có cách gì ta có thể đoán biết được nghiệp quả của người khác. Tuy nhiên, ta biết qua những gì ta có thể nhìn thấy nơi chính bản thân, là tất cả mọi người đều hái quả của các hành động của họ.

Nếu ai đã hành động không khéo léo khiến chúng ta do đó bị thiệt hại, hay tổn thương, chúng ta có thể dễ dàng trở nên sân hận. Điều quan trọng là ở ngay giây phút đó, ta có thể nhớ rằng tất cả mọi người có cách sống riêng ở đời, tạo nên những tập quán nhân quả của riêng họ. Chúng ta như thế nào trong hiện tại hầu hết là do kết quả của các hành động có chủ tâm của ta. Nếu không chú tâm tìm hiểu giáo pháp của Đức Phật -nhiều người không có hứng thú gì trong việc này- thì sẽ không có ai đọc quyển sách này. Vì thế có đủ lòng ưa thích để đọc, để lắng nghe Pháp là một cách để tạo nghiệp lành- nếu với chủ tâm tốt, vì ta cũng có thể tạo ra nghiệp xấu khi làm việc gì đó bên ngoài có vẻ là thiện. Vấn đề này khá phức tạp, tuy nhiên, nếu ta có thể tự nhắc nhở mình về luật nhân quả, có thể sẽ giúp ta dễ buông bỏ sân hận hơn. Đó là năm phương cách để diệt bỏ các sân hận mà ta được biết đến.

Trong một số trường hợp Đức Phật khuyên ta nên xa lánh những hoàn cảnh có thể gây khó chịu cho ta. Chúng ta nên tránh những sự gặp gỡ khiến ta nổi sân, nhất là khi tình cảm ta không được quân bình và dễ kích động -cũng như ta nên bảo vệ mình khỏi người xấu, lũ voi hoang dại, rừng rậm và những thứ nguy hiểm khác. Dầu ta không nên chạy trốn những hoàn cảnh khó xử, việc thú nhận rằng ta không thể đối mặt với mọi hoàn cảnh, là điều hoàn toàn có thể chấp nhận được. Chúng ta cần phải cố gắng hết sức mình để hành xử trong mọi hoàn cảnh với tâm từ bi, nhưng cũng phải chấp nhận rằng đôi khi ta phải bó tay, không thể thích ứng với mọi hoàn cảnh.

Xả được coi là tình cảm cao thượng nhất, và không nên nhầm lẫn nó với thái độ dửng dưng. Xả không chỉ hàm chứa lòng từ bi -điều mà dửng dưng không có- mà nó còn phát khởi từ tri kiến về vô thường, về thực chất là mọi chuyện của ngày hôm nay sẽ khác đi ở ngày mai. Bên trong ta hay bên ngoài, tất cả mọi thứ đều luôn thay đổi; ngay chính niềm tin và quan điểm của ta hôm nay cũng sẽ hơi khác đi ngày mai, và bất cứ cố gắng nào để ngăn cản quá trình này cũng đưa đến khổ đau. Xả có nghĩa là chấp nhận mọi thứ như chúng là, như thế đối với người nguyện tiến bước trên con đường tâm linh, điều ấy có nghĩa là không tạo ra xung đột bằng cách xen vào việc của người.

Xả hàm chứa một sự chấp nhận và bằng lòng êm ái. Như thế ta có thể làm gì với sự phiền não này? Điều cần lưu ý trước tiên là phải chắc chắn rằng ta không làm điều gì để tạo thêm khổ đau, rồi thì xem xét mỗi hoàn cảnh với sự cảm thông, và sửa đổi những gì có thể. Nếu chúng ta có thể sửa đổi những điều kiện bên ngoài mà không đánh mất sự bình an nội tâm, thì càng tốt, nhưng nói chung, chúng ta chỉ có thể có những sửa đổi sâu xa nơi bản thân, và điều đó cũng đủ khó rồi.

Đoạn kế tiếp trong kinh là những lời giảng giải dài hơn về cùng một chủ đề của Ngài Xá Lợi Phất, người là "cánh tay mặt" của Đức Phật. Ngài Xá Lợi Phất nổi tiếng thông thái, trí tuệ và thường diễn giải các bài kinh của Đức Phật. Khi được hỏi rằng những lời dạy của ngài Xá Lợi Phất có đúng không, Đức Phật luôn đáp đúng.

Ngài Xá Lợi Phất dạy rằng: "Có năm cách để đối trị sân hận, qua những phương cách này ta sẽ có thể đối trị được sân hận. Năm cách đó là gì? Nếu một người không trong sạch trong hành động, nhưng lời nói trong sạch, thì sân hận đối với người đó cần được chế ngự. Nếu một người có lời tà ngữ, nhưng trong sạch trong hành động, thì sân hận đối với người đó cần được chế ngự. Thêm nữa, nếu có người hành động lẫn lời nói đều không trong sạch nhưng đôi khi họ cũng có lòng tin, thì sân hận đối với người đó cần được chế ngự. Lại nữa, nếu có người hành động lẫn lời nói đều không trong sạch, mà lúc này lúc khác cũng không có lòng tin, thì sân hận đối với người đó cũng cần được chế ngự. Lại nữa, nếu có người lời nói lẫn hành động đều trong sạch, và lại lúc này hay lúc khác mở lòng đón nhận niềm tin, thì sân hận đối với người đó cần được chế ngự”.

Như vậy ngài Xá Lợi Phất đã kể ra năm loại người khác nhau – và tiếp tục trình bày, bằng những ẩn dụ ngắn, cách làm sao để đối phó với từng người, kiềm chế được sân hận đối với họ. Lời nói của chúng ta có thể tốt lành nhưng ta lại hành động xấu xa, hay những lời chúng ta nói có thể không được khéo léo nhưng ta có hành động thiện. Giả thuyết thứ ba là cả hành động và lời nói có thể đáng trách, nhưng tâm cởi mở. Trường hợp thứ tư, kể cả tâm cũng đóng chặt, cứng nhắc. Cuối cùng là, lời nói và hành động đều đáng biểu dương, cùng với một trái tim cởi mở.

Chúng ta làm thế nào để chế ngự sân hận đối với loại người thứ nhất? Giống như một vị sa môn mặc y phấn tảo, gặp giẻ rách nằm trên đường, vị ấy với chân trái giữ tấm vải, chân mặt kéo thẳng ra, rồi xé lấy phần vải còn nguyên vẹn, để mang theo, cũng thế với người có hành động không trong sạch, nhưng lời nói trong sạch, tâm ta lúc ấy nên nghĩ tới lời nói thanh cao hơn là việc làm uế nhiễm của người ấy. Bằng cách đó lòng sân hận đối với người ấy sẽ được chế ngự.

Vào thời Đức Phật còn tại thế, tất cả vải vóc đều dệt bằng tay, rất đắt tiền, nên chư tăng ni thường mặc những y bằng vải chấp vá. Nếu họ tìm thấy những mảnh vải trên đường hay giữa các đống rác, họ có thể nhặt về để may lại với nhau. Trong câu chuyện thí dụ này, một vi sa môn tìm thấy mảnh vải rách, ông xé lấy phần còn sử dụng được, và bỏ lại các phần khác. Đó là cách ta nên ứng dụng khi nghĩ đến người có hành động bất thiện, nhưng lời nói thiện: chúng ta nên bỏ qua những hành động xấu mà chỉ nghĩ đến lời nói của họ. Nói vậy không có nghĩa là ta sẽ ngó lơ những hành động bất thiện họ đã làm; ta vẫn nhìn ra nhưng không phán xét họ, vì kết án hay buộc tội đều dẫn đến sân hận. Rất ít có gì hoàn hảo trên thế gian, nên trên lý thuyết ta có thể bực bội từ sáng đến tối. Nhưng nếu ta chỉ chủ tâm đến những tánh tốt của người mà ta thấy giận ghét (không phải là không có lý do), thì ta có thể chế ngự cơn giận của mình. Có thể họ có rất nhiều điều xấu, mà chỉ có ti li điều tốt, nhưng ta vẫn nên hướng chủ tâm đến điều tốt của họ.

Làm vậy, chính chúng ta mới là người được nhiều lợi ích hơn cả, vì có thể người kia không hề biết đến sự bất mãn của ta. Ngay nếu như chúng ta có nói điều đó ra, họ khó có thể chấp nhận ý kiến của ta. Có lẽ tốt nhất là nhắc nhở rằng họ đã làm điều gì đó không tốt, nhưng sẽ hoàn toàn không ích lợi gì nếu ta giận dữ nói cho họ biết là ta cảm thấy oán trách họ. Phương cách để chế ngự sân hận, và trở về với nội tâm tĩnh lặng của mình, là hãy nghĩ đến những điều tốt của người. Những xáo trộn nội tâm chỉ làm cho cuộc đời thêm khó sống.

Ngài Xá Lợi Phất sau đó lại cho một thí dụ khác:

Giả dụ như có một mặt hồ bị bao phủ bởi những rong rêu, một người đang nóng bức, chảy mồ hôi, mệt nhoài, khát nước, nghĩa là đang chịu khổ, tiến gần đến hồ, leo xuống hồ, gạt bỏ lớp rong rêu ở nhiều chỗ với cả hai tay, vốc nước lên tay uống, rồi tiếp tục cuộc hành trình. Cũng bằng cách đó đối với người có lời nói không trong sạch, nhưng hành động tốt, ta phải chú tâm không phải vào lời nói ô uế mà vào hành động thanh cao của người ấy. Do đó ta có thể chế ngự sân hận đối với người đó.

Vậy là ta thấy một người đang đi trong cái nắng cao độ, mệt lả, khát nước. Vì rong rêu bao phủ mặt nước, anh ta không thể giải cơn khát của mình ngay lập tức. Nhưng anh ta đã biết nghĩ để đẩy lớp rong rêu qua một bên, uống nước và được hồi sức. Tương tự, chúng ta có thể để qua một bên những lời nói không tốt đẹp của một người mà chỉ nghĩ đến những hành động trong sạch, tốt đẹp của họ. Hãy nhớ đến, thí dụ như, những trường hợp khi họ đã giúp đỡ người khác, hay nghĩ đến những đặc tính của họ, và để qua một bên những điều họ khiến ta bực bội trong giai đoạn này.

Những thí dụ như thế tạo thành những phương tiện hỗ trợ mạnh mẽ, dễ nhớ cho việc thực hành này. Chúng ta chỉ cần tưởng tượng ra những mảnh giẻ rách nằm đó, sờn rách, nhưng có thể tái sử dụng được. Hay hình ảnh những rong rêu được gạt sang một bên để phơi bày nguồn nước sạch trong, tươi mát. Sau đây là câu chuyện ví dụ thứ ba:

Giả dụ trong lỗ chân trâu có một ít nước, và có một người đang bị sức nóng chế ngự, sướt mồ hôi, mệt nhoài, khát, do đó đang rất khốn khổ, đi ngang qua và nhìn thấy nước. Anh ta nghĩ, "Nếu ta vớt chút nước ít oi đọng lại trong lỗ chân trâu bằng hai tay hay với một vật chứa nào, ta sẽ khuấy động nước khiến không uống được nữa. Do đó, tôi thà là phải quỳ xuống giống như con bò trên bốn chân để hớp được ngụm nước, rồi tiếp tục cuộc hành trình". Và đó là điều anh ta đã làm. Cũng thế, với những ai có lời nói và hành động không thanh tịnh, nhưng tâm họ đôi khi cũng mở rộng tiếp nhận niềm tin, thì ta không nên để tâm đến hành động và lời nói uế nhiễm của họ lúc ấy. Thay vào đó, ta nên quán chiếu rằng tâm người đó đôi khi cũng rộng mở, cũng có niềm tin. Do đó ta nên chế ngự sân hận đối với một người như thế.

Nếu người lữ hành này vục tay hay dùng đồ múc vào nước, thì nước sẽ bị vẩn bùn, không uống được. Cũng thế, nếu chúng ta chỉ nghĩ đến những điều tồi tệ nhất của một ai đó, nghĩ đến những lời nói khó nghe của họ và phản ứng: chúng ta sẽ bị "khuấy động”. Khi tình cảm khó chịu này càng tăng lên, chúng ta sẽ không còn thấy an nhiên. Điều quan trọng trong câu chuyện thí dụ là người lữ hành đã quỳ gối xuống để uống nước, vì nói một cách bóng bẩy, chúng ta cũng phải quỳ gối xuống, và hiểu với tất cả lòng khiêm hạ rằng chúng ta chỉ có thể tìm được sự bình an ở nội tâm khi chúng ta biết chấp nhận những hành động, lời nói không thanh tịnh của người.

Ví dụ này có lẽ dễ nhớ, vì uống từ nước đọng trong dấu chân trâu không phải là một điều tốt đẹp để tưởng nghĩ đến. Những nếu chúng ta đang khát lả -ý chỉ nỗi bất an trong tâm do sân hận mang đến- chúng ta sẽ chấp nhận uống bất cứ thứ nước nào có thể tìm thấy. Chúng ta chịu đựng những uế nhiễm của người, chúng ta tránh khuấy động chúng lên, kết quả là ta có thể giữ được sự bình an trong nội tâm mình. Người lữ hành trong câu chuyện thí dụ được uống chút gì đó, và chúng ta thì cũng có thể tìm được điều gì đó để làm dịu bớt căng thẳng trong sự liên hệ giữa ta với người mà hành động và lời nói quá uế nhiễm. Chúng ta tự nhắc nhở mình rằng họ cũng có tấm lòng đôi khi cũng rộng mở để đón nhận niềm tin. Hơn thế nữa, kể cả khi ta nghĩ đến hành động và lời nói của họ, ta cũng có thể nhớ lại rằng một con người như vậy cũng có điểm tốt nơi họ. Nhìn được họ như thế, chúng ta có thể có sự chấp nhận và giảm bớt sự nóng nảy, sôi sục trong ta.

Đây là câu chuyện thứ tư:

Hãy tưởng tượng ra một người, bịnh nặng, đau đớn, đang bước đi trên đường. Anh ta đang ở một nơi cách xa các làng mạc ,không thể tìm được đồ ăn hoặc thuốc men, hay ai đó để trông nom, chỉ dẫn giùm anh ta. Nhưng rồi cũng có người nhìn thấy anh ta, cảm thấy thương xót, phát khởi tâm thiện với ý nghĩ, "Mong rằng người đàn ông đó tìm được thức ăn, thuốc men thích hợp, một ai đó để chăm sóc cho anh, dẫn đường cho anh, nếu không anh ta khó thoát chết!” Cũng thế, đối với một người mà hành động, lời nói đều không trong sạch, và cũng chưa từng mở lòng đón nhận niềm tin, chúng ta cần phải có lòng từ bi, thương xót, thiện ý, với tư tưởng, "Mong rằng con người cao quý này có thể từ bỏ những tánh xấu trong ý nghĩ, hành động, lời nói, và mong rằng anh ta có thể thực hành những ý nghĩ, lời nói, hành động thanh cao; mong anh ta, khi thân đã hoại sau khi chết, không phải đọa vào thế giới hạ tiện, đi trên con đường đau khổ". Bằng cách đó, chúng ta có thể chế ngự được sân hận đối với một người như thế.

Thí dụ này trình bày cho ta thấy những liên hệ nghiệp quả, người ta sẽ phải đối mặt với hậu quả của các hành động của mình ra sao, do đó chúng ta có thể phát khởi lòng thương xót cho họ như thế nào. Nếu nói hay hành động hay có những ý nghĩ bất thiện, chúng ta thật sự đang bị tham sân hành hạ, như thể đang bị bịnh hành khổ. Chúng ta nói, hoặc hành động do sân hận, hay hành động hoặc lời nói của ta phát xuất từ lòng tham. Tất cả chúng sanh đều khổ đau như thế do sự độc hại của vọng tưởng, mà như Đức Phật đã giải thích, là do sự độc hại tiềm ẩn của tham và sân. Tất cả đều tạo cho ta bất an, và bao điên đảo trên thế giới: trong gia đình, trong thương trường và giữa các quốc gia.

Nếu tham sân có thể được coi như một dịch bịnh, thì Đức Phật có thể được xem như một vị đại dược sư, và Pháp, giáo lý của Ngài, là thuốc chữa. Thuốc chữa bịnh có thể không dễ uống, nhưng chắc chắn là ta sẽ được chữa lành. Câu chuyện ẩn dụ của người bịnh không tìm được sự giúp đỡ, do đó thật đúng và dễ nhớ. Chúng ta đã gặp rất nhiều người đau khổ vì những hành động bất thiện, những lời nói không thanh tịnh, và sự thiếu lòng tin của họ, và phản ứng hợp lý duy nhất của ta là đối xử với họ bằng lòng thương cảm, với hy vọng rằng họ sẽ chóng khỏi bịnh, tìm được sự bình an nội tâm, do đó chấm dứt việc phải gặt hái những hậu quả đớn đau của họ. Chúng ta thường mong mọi người thân được sức khỏe, thì không khó khăn gì để chúc họ một loại sức khỏe tốt khác: không bị tham sân chế ngự. Cách nhìn sự vật như thế có thể mang nhiều lợi ích cho sự tu tập của ta.

Thí dụ thứ năm và cũng là cuối cùng tươi sáng hơn:

Giả dụ có một hồ nước trong, sạch sẽ, mát mẻ, ở một vị trí rất đẹp, một nơi chốn đặc biệt, dưới bóng những rặng cây xanh. Và hãy tưởng tượng có người đi ngang qua đấy mệt lả vì nóng, mồ hôi tuôn tràn, khát lả, nghĩa là đang rất khốn khổ. Anh ta bước xuống hồ, tắm mát, uống nước hồ đó. Rồi leo trở ra ngoài, ngồi hay nằm dưới bóng cây. Cũng thế, với người mà hành động, lời nói thanh tịnh, và lòng luôn cởi mở, đầy lòng tin, chúng ta lúc đó phải chú tâm, quán chiếu về sự thanh tịnh trong lời nói và hành động, cũng như tấm lòng cởi mở, có tín tâm của người ấy. Do đó ta có thể chế ngự sân hận đối với một người như thế.

Người mà hành động, lời nói thanh tịnh và tâm thường cởi mở được so sánh với một hồ nước tuyệt vời với nước trong lành, mát mẻ. Ngay nếu như ta có thể bị tổn thương bằng cách nào đó bởi một người như thế, ta có thể chế ngự bất cứ sự phát khởi nào của sân hận bằng cách nhận ra rằng họ là nguồn phước báu cho chúng ta và cho bao người khác, và rằng không có cơ sở nào để ta gán ép tình cảm sân hận đối với họ, vì cách cư xử của họ trong đời quá đỗi thanh tịnh, đời sống tình cảm của họ thì tràn đầy tình thương, bi mẫn. Bài kinh kết thúc với câu kinh sau đây:

Tâm ta có thể tìm được sự bình an ở người mà trong mọi hoàn cảnh đều phát khởi tín tâm và sự tự tin. (Anguttara-Nikaya v. 162 – Tăng Chi Bộ số 162)

Chúng ta có thể tăng trưởng thêm sự an bình nội tại gấp bội bằng cách thường xuyên tiếp xúc với người mà ta hoàn toàn tin tưởng. Đức Phật thường nhấn mạnh với chúng ta điều quan trọng là phải giữ bạn hiền, tìm kiếm thiện hữu tri thức: những người sống đời thanh cao, đi theo con đường đạo, và có thể giúp ta làm giống như họ. Một người như thế sẽ nhìn cuộc đời rất khác với kẻ chỉ thích vật dục, và người ấy có thể giúp ta làm được như thế. Tuy nhiên, ta cần phải duy trì lòng tin vào một người bạn như thế. Nếu lòng tin của ta đối với họ bị lung lay, chúng ta sẽ không tìm được sự bình an cho đến khi ta có thể thiết lập lại được niềm tin đó. Nếu không, có thể ta cần phải buông bỏ tình bạn đó.

Sân và tâm luyến ái muốn được thương yêu là hai mặt của một đồng tiền. Trong mỗi hoàn cảnh chúng ta đều có cùng một trở ngại tiềm ẩn. Nếu có ai đó xúc phạm đến ta, đó có thể là biểu hiện của việc họ thiếu sót tình thương đối với ta, những cũng có thể là do họ không được khoẻ, hay có thể chỉ là họ không biết phải giao tiếp với người khác như thế nào. Tuy nhiên, đối với chúng ta, hành vi của họ có thể được coi là một sự chống đối. Nếu ta muốn được thương yêu, nhưng không được như thế, ta sẽ cảm thấy buồn, rồi đưa đến sân hận. Tình thương có thể là thuốc chữa cho tất cả mọi người, giúp cho thân tâm của họ được tốt hơn -nhưng đây không phải là loại tình yêu đòi hỏi điều kiện, cũng như tùy thuộc vào ta có thể tìm được người nào đáng yêu không. Nói cho cùng thì chỉ có bậc Giác ngộ mới hoàn toàn đáng yêu. Ta hướng tâm mình đến tình thương yêu, và khi tình thương yêu đó đã trở thành một đặc tính của tâm thì sẽ không còn là vấn đề nếu đối tượng có đáp trả lại tình thương của ta không. Dẫu cho người kia có thương yêu hay không thể thương yêu, không ảnh hưởng gì đến ta cả. Ước muốn được yêu thương chỉ là một khía cạnh khác của ngã chấp. Nếu chúng ta không chắc rằng mình có đáng yêu hay không, và ta chọn để người khác quyết định điều đó cho ta, chắc là ta sẽ thất vọng, vì tất cả mọi người thường hay thay đổi ý kiến, cũng như chúng ta.

Trước hết ta phải xác định với chính mình là chúng ta thực sự đáng yêu, và với ý nghĩ này trong tâm ta nhận thức rằng mọi người cũng đáng yêu như thế. Dầu ta đều có những lỗi lầm như mọi người khác, chúng ta vẫn xứng đáng được thương yêu. Như thế ta cũng phải nhận thức rằng ta không cần phải đi tìm ai đó để yêu thương ta, vì cội nguồn thực sự của tình thương yêu đã được tìm thấy ở trong tim ta. Do đó sẽ không cần phải sân hận hay buồn khổ nếu có ai đó không màng đến ta. Vì họ chưa hoàn toàn có khả năng yêu thương, ta nên thương cảm cho họ.

Do đó khi đoạn diệt sân hận, chúng ta cũng cần buông bỏ việc tìm kiếm tình thương yêu từ người khác. Như thế là tất cả mọi vấn đề đều được giải quyết, vì sân hận không thể phát khởi từ trái tim tràn đầy tình thương yêu. Nhưng tình cảm thì luôn thay đổi, và trái tim mấy ai luôn bền vững, nên việc chế ngự sự không bền vững này là một trong những khía cạnh quan trọng trên con đường thực hành tâm linh của ta. Nếu chúng ta có thể thành công, thoát khỏi quyền lực tình cảm của kẻ khác, khỏi những điều kiện bên ngoài nói chung, bằng cách vun trồng sức mạnh nội lực của tình thương yêu để nó không còn phải khuất phục trước những quyền lực này, thì chúng ta mới thực sự thực hành tâm linh. Dầu chúng ta có đến được cuối con đường thực hành này hay không, không phải là vấn đề; chúng ta chỉ cần tiếp tục đi theo con đường thanh tịnh hoá đó.

-ooOoo-

Chương 7

Chúng Ta Phải Tin Vào Gì?

Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn đi du hành qua Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo, đến Kesaputta, thị trấn của các người Kàlàmà. Bấy giờ, người Kàlàmà ở Kesaputta nghe tin rằng: Sa-môn Gotama, là vị khổ hạnh, Thích tử, Phật, người đã rời bỏ cung điện sống đời xuất gia, đã đến Kesaputta. Tiếng đồn tốt đẹp như sau về Sa-môn Gotama được lan truyền rộng rãi:

‘Ngài là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật. Sau khi tự thực chứng, Ngài đã giảng dạy cho chư thiên và loài người, hàng tu sĩ và cư sĩ, vua chúa cùng thường dân, Ngài đã giảng Pháp vi diệu từ chặng đầu, chặng giữa, cho đến chặng cuối; Ngài đã giảng về đời sống phạm hạnh chi tiết và rõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn thanh cao.

Lành thay, nếu chúng tôi được yết kiến một vị Ứng Cúng như vậy."

Anguttara-Nikaya iii.65
Tăng Chi Bộ - Kinh Kalama iii.65 (5)

*

Kinh Kalama là một trong những bài kinh nổi tiếng nhất của Đức Phật, và kinh này đặc biệt quan trọng đối với những ai muốn đi theo con đường tâm linh, nhưng phải đối mặt với một số lượng lớn những giáo pháp trước mắt -không biết phải đi theo con đường nào. Bộ tộc Kalama là một trong nhiều bộ tộc ở Ấn Độ vào thời Đức Phật còn tại thế. Đức Phật đã hướng dẫn cho họ cách tìm ra lời giải cho câu hỏi trên.

Kinh bắt đầu bằng câu "Như vầy tôi nghe,' xác định là bản kinh đã được đọc lại sau khi Đức Phật nhập diệt bởi tôn giả Ananda, là em bà con đồng thời cũng là thị giả của Đức Phật suốt hai mươi năm.

"Như vầy tôi nghe. Một thời Đức Thế Tôn du hành qua Kosala cùng với đại chúng tỳ kheo, đi đến Kesaputta, thị trấn của các người Kalama. Bấy giờ các vị Kalama ở Kesaputta nghe tin rằng Sa-môn Gotama, là vị khổ hạnh, Thích tử, Phật, đã từ bỏ cung điện sống đời xuất gia, đã đến Kesaputta. Và những lời tốt đẹp như sau về Đức Thế Tôn được lan truyền rộng rãi: Ngài là Đức Thế Tôn, bậc Ứng cúng A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiên Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật. Sau khi tự thực chứng, Ngài đã giảng dạy cho chư Thiên và loài người, hàng tu sĩ và cư sĩ, vua chúa cùng thường dân. Ngài đã giảng Pháp vi diệu từ chặng đầu, chặng giữa, cho đến chặng cuối. Bằng lời nói và trí tuệ, Ngài đã giảng về đời sống phạm hạnh hoàn toàn tinh khiết. Lành thay, nếu chúng ta được yết kiến một vị Ứng cúng như vậy’.

Vì thế người Kalama của Kesaputta đi đến nơi Đức Phật đang trú ngụ. Có người cung kính đảnh lễ Đức Phật rồi ngồi xuống một bên; có người chào Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống; người khác chấp hai tay lại vái Đức Thế Tôn; người lại xướng tên họ gia tộc mình; người khác nữa chỉ ngồi xuống mà không nói gì".

Theo đoạn kinh này rõ ràng người Kalama không phải là đệ tử của Đức Phật. Họ biết điều quan trọng là đi đến gặp Đức Phật, nhưng không phải tất cả đều thấy việc phải nghe Đức Phật là điều quan trọng. Họ đơn giản là muốn tìm hiểu các giáo lý, và danh tiếng của Đức Phật –đã đến tai họ trước khi Ngài đến- rằng Ngài rất khéo giảng dạy giáo thuyết về sự thanh tịnh bản thân. Mọi người chào hỏi Đức Phật theo cách mà họ cho là đúng. Ta có thể hình dung ra được khung cảnh ấy có lẽ hơi lộn xộn một chút, với hàng trăm người đến, đảnh lễ, cung kính thưa hỏi, thông báo tính danh, hay chỉ tìm một chỗ để ngồi xuống. Giá mà tất cả đều là đệ tử Đức Phật thì khung cảnh có lẽ sẽ trật tự, yên tĩnh hơn: mọi người có lẽ sẽ chỉ vái chào rồi ngồi xuống – nhưng đó rõ ràng không phải là trường hợp như thế ở đây.đây thính giả là những người đang trên cuộc hành trình tìm đến tâm linh, những người đã từng nghe được những điều tốt lành về thái tử Siddhattha Gotama của dòng họ Thích Ca, hay Đức Phật như ngài đã trở thành.

Sau khi đã ngồi xuống như thế, người Kalama ở thành Kesapputta bạch cùng Đức Thế Tôn.

Có lẽ là vị trưởng lão trong thành đã đứng lên trình bày vấn đề mà hình như là của tất cả đám đông:

Có một số Sa-môn, Bà-la-môn, bạch Thế Tôn, đi đến Kesaputta. Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng quan điểm của người khác, họ bài xích, khinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Bạch Thế Tôn, và một số Sa-môn, Bà-la-môn [đẳng cấp giáo sĩ – không phải tất cả bà-la-môn đều là giáo sĩ, nhưng tất cả giáo sĩ đều là bà-la-môn] khác đến Kesaputta, cũng làm như thế: Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng quan điểm của người khác, họ bài xích khinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Ðối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ phân vân trong những vị Sa-môn, Bà-la-môn này, ai là người đã nói lên sự thật và ai đã gian dối.’

Dĩ nhiên đó là điều khiến cho bài kinh này trở nên khá phổ biến: bất cứ người có chút thông minh nào ngày nay cũng đã trải qua kinh nghiệm này. Từ mỗi và mọi phía, ta sẽ được nghe những điều khác nhau, và có quá nhiều kẻ nói lên quan điểm, lập trường của họ với ta, với đầy vẻ thuyết phục như nhau. Do đó, ở đây, người Kalama cũng đã nhận xét thấy là các vị diễn giả này tung hô những ý kiến của họ, không kể gì đến người khác, miệt thị quan điểm của người khác, và tuyên bố rằng chỉ có ý kiến của họ là có giá trị nhất. Kết quả là người Kalama đã trở nên rất nghi ngờ, phân vân không biết phải tin vào đâu. Đây là câu trả lời của Đức Phật:

Đúng thế, các vị Kalama, các vị đáng phải nghi ngờ, các vị đáng phân vân. Đối với việc người ta không thể chắc chắn, thì phải phát sinh nghi hoặc trong lòng’.

Đức Phật đồng ý; Ngài đã hiểu vì sao họ phải nghi ngờ trước bao nhiêu quan điểm khác nhau, nhất là khi có nhiều vị giáo sĩ đã lăng mạ, sỉ vả lẫn nhau. Vì lẽ đó, Ngài đã đưa ra mười nguyên tắc, mà giờ chúng ta đều được biết. Không cần phải nói, những nguyên tắc này cũng dành cho cả chúng ta. Thật thú vị khi Đức Phật khuyên rằng, chính bản thân Đức Phật, và những lời dạy của Ngài, cũng phải được phán xét bởi các nguyên tắc ấy. Sau đó, Đức Phật cũng đưa ra những quy luật tương ứng theo đó người ta có thể tìm được những phương hướng đích thực của mình, nhưng để bắt đầu Ngài đã liệt kê những tiêu chuẩn được coi như không chính đáng, không đầy đủ.

‘Chớ có tin bởi những lời đồn đãi, ... hay bởi người ta nói với bạn, ... hay bởi truyền thống,..."

Do đó đừng tin vào điều gì chỉ vì nó đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ thầy qua trò, và do đó được gọi là truyền thống. Sự nhấn mạnh vào tính xác thực của truyền thống không chứng tỏ được điều gì cả.

... hay bởi các tư tưởng đương thời, ...’

Cũng đừng bị lầm lạc bởi yếu tố rằng quan điểm đó rất phổ biến, rất nổi tiếng, hay rất hợp thời. Như thế cũng không nhất thiết là sai, nhưng điều đó không nên là lý do duy nhất để ta tin theo một quan điểm nào đó.

' ... hay bởi oai lực của các thánh điển, ...’'

Chúng ta cũng không nên chỉ dựa vào oai lực của các thánh điển. Các bài thuyết giảng của Đức Phật dầu gì cũng không là thánh điển. Có thể cũng rất hợp lý khi ta tôn trọng các kinh sách cao quý của Đức Phật một cách nghiêm chỉnh, nhưng cái ý nghĩ tự động gán ghép oai lực cho các kinh sách thì bị bác bỏ mạnh mẽ.

'... hay chỉ bởi những diễn giải hợp lý, ...'

Không có lý lẽ suy luận gì đủ để bảo đảm tính cách chân thực hay hiệu quả tâm linh của một giáo lý.

... hay bởi những lý thuyết suy diễn hay ý kiến cá nhân, ...'

Sự phê phán nghiêm khắc này nhắm thẳng đến tất cả các quan điểm, ý kiến được ca tụng, những cách suy nghĩ quen thuộc khiến ta bị dính mắc bởi sức mạnh của thói quen. Và còn có rất nhiều cách khiến ta có ý kiến này nọ: bởi tư tưởng, qua sự tưởng tượng của ta, bởi những sự chấp nhận, thoả thuận một cách chủ quan, và bởi những chọn lựa, thiên kiến có tính cách cá nhân. Vì thế chúng ta không nên tuân theo những sự cám dỗ quen thuộc để cho phép chúng ta bị dẫn dắt bởi những ý kiến hay khái niệm được ưa thích.

'... hay bởi ngưỡng mộ những thành quả cá nhân và cá tính của một vị thầy đặc biệt nào đó, hay bởi uy lực của vị thầy...’

Ngay chính những điều này cũng chưa là những lý do đủ chính đáng để ta đi theo con đường tâm linh nào. Độc nhất trong lịch sử các tôn giáo, Đức Phật không bảo người ta phải chấp nhận quyền lực của một ai đó, dầu cho đó là tự nhiên, siêu nhiên, được gán ghép, hay chỉ áp đặt, như là một vị đạo sư, và điều đó bao gồm cả Đức Phật. Chính Ngài có bao đức tính cao quý, được coi là rất lôi cuốn, tuyệt đối thuyết phục, đáng tin tưởng – nói một cách khác, Đức Phật có đủ oai lực – nhưng ngay chính oai lực của Đức Phật, đối với Ngài, cũng không thể được chấp nhận như là lý do duy nhất để tuân theo giáo lý của Ngài.

"Nhưng này hởi các vị Kalama, khi nào tự mình biết rõ như sau: ‘Các pháp này là bất thiện, các pháp này là đáng chê, các pháp này bị người trí chỉ trích, và nếu chấp nhận thực hiện sẽ đưa đến bất hạnh, khổ đau,’ thì, đúng thế, hãy từ bỏ chúng".

Đức Phật nhấn mạnh rằng mọi người phải chịu trách nhiệm cho bản thân, rằng mọi người phải tự quán sát, và tự biết, chứ không nên có lòng tin mù quáng, và tuân phục quá đáng. Nếu ta không hiểu gì là bất thiện, là đáng trách, thì ta phải tiếp tục kiếm tìm. Sau đó Đức Phật lại hỏi:

'Các vị nghĩ thế nào, này các Kalama: khi có người khởi lòng tham ái, thì đó là ích lợi hay bất hạnh cho họ?'

‘Bạch Thế Tôn, đó là bất hạnh cho họ’.

‘Này các vị Kalama, với lòng tham, người này bị tham chinh phục, không chế ngự được tâm do tham, người này sát hại, lấy của không cho, xâm phạm vợ người, nói láo và khích lệ người khác cũng làm như thế; và điều này sẽ đem đến bất hạnh, đau khổ cho họ lâu dài’.

‘Thật đúng vậy, bạch Thế Tôn’.

'Các vị nghĩ thế nào, này các Kalama: khi có người khởi lòng sân hận, vọng tưởng, thì đó là ích lợi hay bất hạnh cho họ?'

‘Bạch Thế Tôn, đó là bất hạnh cho họ’.

‘Này các vị Kalama, với lòng sân hận, vọng tưởng, người này bị sân hận, vọng tưởng xâm chiếm, không chế ngự được tâm bởi lòng sân hận, vọng tưởng, người này sát hại, lấy của không cho, xâm phạm vợ người, nói láo và khích lệ người khác cũng làm như thế; và điều này sẽ đem đến mất mát, khổ đau cho họ lâu dài’.

‘Thật đúng vậy, bạch Thế Tôn’.

Vì thế nếu tâm tham phát khởi - rồi giết người, trộm cắp, tà dâm, bất lương, tất cả đều từ tâm tham đắm – thì chúng ta đã phạm vào bốn giới đầu tiên. Sân hận, cũng thế, cũng có thể đưa đến những hành động xấu ác như trên. Ở đây Đức Phật dạy rằng giới là căn bản cho con đường tâm linh. Nếu chúng ta muốn “thánh thiện” nhưng đồng thời lại phạm các giới luật đạo đức, thì ta khó có cơ hội để biến sự “thánh thiện” đó trở thành sự phát triển tâm linh thật sựï.

'Này các vị Kalama, các vị nghĩ thế nào: những việc này là bất thiện hay thiện?’

‘Bất thiện, bạch Thế Tôn.’

‘Chúng đáng trách hay không đáng trách?’

‘Bạch Thế Tôn, đáng trách.

‘Người tri thức khen hay chỉ trích chúng?’

‘Bạch Thế Tôn, chỉ trích.’

‘Và những việc này dẫn đến mất mát, đau khổ, hay không? Các vị thấy thế nào?’

‘Các pháp này thật sự dẫn đến mất mát, khổ đau. Đó là chúng con nhìn sự việc như thế.’

Như thế là Đức Phật đã hỏi các thính giả của Ngài về những điều bản thân họ tin tưởng, và để họ tự quyết định cho chính mình.

"Như vậy, chính vì lý do đó, chúng ta có thể nói như thế này: Chớ có tin vì lời đồn đãi, vì truyền thống, vì những quan điểm hợp thời, vì uy lực của kinh điển, hay chỉ vì những suy diễn hợp lý, vì lý thuyết diễn giải hay ý kiến hợp lòng, vì vẻ ngoài hay cá tính của ai đó, hay vì oai lực của vị đạo sư. Chỉ khi các vị tự biết: ‘Các pháp này là bất thiện, các pháp này đáng chê trách, chúng bị bậc tri thức chỉ trích, và khi thực hiện, chấp nhận, chúng sẽ đưa đến mất mát, khổ đau’, thì, đúng vậy, các vị nên từ bỏ chúng".

Vị thầy chỉ cho ta con đường, nhưng chúng ta không chỉ đi theo vì oai lực của vị thầy, và chúng ta không nên nghĩ rằng vị thầy ấy có thể dẫn dắt chúng ta đến đích mà không cần đến sự tham gia của ta. Không có tư tưởng được tán thán nào có thể giúp chúng ta trừ khi ta có thể nhận thức rõ ràng được điều gì là thiện, điều gì là không.

"Nhưng nếu các vị có thể tự nhận ra: ‘Các pháp này là thiện, các pháp này không thể bị chê trách, chúng được các bậc tri thức tán thán, và khi thực hành, chấp nhận, chúng đưa hạnh phúc, bình an,’ thì các vị nên chấp nhận chúng".

Sau đó Đức Phật nói về sự đối nghịch với lòng tham đắm: sự giải thoát khỏi tham đắm.

‘Này hỡi các vị Kalama, các vị nghĩ thế nào: khi có người phát khởi tâm đoạn diệt khỏi tham đắm, điều đó đem đến lợi ích hay bất hạnh cho họ?’

-Bạch Thế Tôn, lợi ích.

-Giải thoát khỏi tham, không bị tham xâm chiếm, tâm người đó không bị tham chế ngự, người đó tránh xa giết hại, tránh xa lấy của không cho, tránh xa tà dâm, tránh xa việc nói lời không chân thật, mà người đó cũng không khuyến khích người khác làm những chuyện bất thiện. Như thế người đó sẽ được hạnh phúc, bình an lâu dài.’

-Đúng vậy, Bạch Thế Tôn.

‘Này hỡi các vị Kalama, các vị nghĩ thế nào: khi có người phát khởi tâm đoạn diệt khỏi sân hận, vọng tưởng, điều đó đem đến lợi ích hay bất hạnh cho họ?’

-Bạch Thế Tôn, lợi ích.

-Giải thoát khỏi sân hận, vọng tưởng, tâm người đó không bị sân hận, vọng tưởng xâm chiếm, với tâm không bị sân hận, vọng tưởng chế ngự, người đó không giết hại, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói dối, mà người đó cũng không khuyến khích người khác làm những chuyện bất thiện. Như thế người đó sẽ được hạnh phúc, bình an lâu dài.

-Đúng vậy, bạch Thế Tôn.

‘Này hỡi các vị Kalama, các pháp này là thiện hay bất thiện?’

-Bạch Thế Tôn, là thiện.

-Đáng chê trách hay không đáng chê trách?

-Không đáng chê trách, bạch Thế Tôn.

-Các bậc tri thức chỉ trích hay ngợi khen các pháp này?

-Bạch Thế Tôn, ngợi khen.

-Các pháp này, nếu chấp nhận và thực hành, chúng sẽ đưa đến bình an hay không? Các vị thấy thế nào?

-Các pháp này nếu được chấp nhận và thực hành sẽ mang đến bình an, hạnh phúc. Đó là cách nhìn nhận của chúng con.

Đức Phật thường khuyên chúng ta hãy tự vấn lương tâm để phân biệt điều thiện và điều bất thiện. Nếu việc quán sát này không đưa đến kết luận, chúng ta cần thảo luận với người đáng tin cậy và hiểu biết, nhưng cuối cùng thì mỗi chúng ta đều phải tự kết luận thì mới có thể phát triển tuệ giác. Không ai có thể làm công việc đó cho ta.

Vì thế đây là liệt kê của mười điều mà ta không nên để chúng dẫn dắt ta đi sai đường. Trước nhất là lời đồn đại: chúng ta không nên tin vào những gì người khác nói với ta mà không suy nghĩ về những lời nói đó một cách độc lập. Chúng ta không nên để bị gia đình, bè bạn ảnh hưởng đến độ ta không suy nghĩ gì khi chấp nhận ý kiến của họ vì chúng ta không muốn bị nghĩ là khác người.

Hai là, chúng ta không nên để mình bị lầm lạc bởi lòng tin mù quáng vào truyền thống. Các phong tục tập quán được coi là đúng chỉ vì chúng đã được tuân theo quá lâu, nhưng có thể chúng không có giá trị, nếu chúng dẫn dắt ta đến mất mát, khổ đau.

Ba là, những quan điểm có tính thời thượng. Ảnh hưởng của các quan điểm thời thượng tạo nên bởi các phương tiện truyền thông hiện đại thường có thể rất nguy hại, vì khó thể nhận biết chúng. Từ lúc ta còn thơ ấu, chúng đã có mặt, rồi dần dần chúng ngự trị trong ta như thể đó chính là ý kiến, quan điểm của ta. Chúng ta bị dẫn dắt để tin vào những điều mà ta chưa từng suy nghĩ thấu đáo - chỉ chấp nhận như là một quan điểm thuyết phục nhất ở trước mắt. Như đoạn kinh đã nói rõ, đây không chỉ là một hiện tượng thời hiện đại. Từ lâu nó vốn đã như thế.

Bốn là, oai lực của các thánh điển. Dĩ nhiên, đây đã là nguyên do của bao vấn đề trọng đại, vì tất cả các kinh điểm, ngay cả những cái được coi là thánh điển, thực ra cũng đã được viết bởi con người, và con người có thể cũng lầm lạc. Bất cứ văn tự nào cũng có thể có sai lầm, chúng đầy những hạn chế của nhân loại lầm lạc.

Hai điều kế tiếp, liên quan đến một nền tảng không vững chắc để đặt niềm tin. Việc coi trọng những lý luận trí tuệ, hợp lý rõ ràng cũng có những lợi thế. Tuy nhiên, chỉ có lý trí không cũng là điều nguy hiểm, vì nó có thể hướng đến những mục đích vật chất, hạn hẹp và bỏ qua khía cạnh tâm linh. Nếu ta không thể kết nối cái đầu và trái tim, mà chỉ suy nghĩ theo lý trí, chúng ta có thể thực sự đã sử dụng những khả năng tri thức của mình rất hợp lý, nhưng chúng ta luôn ở trong tình trạng nguy hiểm là có thể sử dụng chúng sai mục đích, và đã đi sai đường. Nhưng tâm là một nhà ảo thuật, nó có thể quay bất cứ hướng nào; ngay khi trái tim dự phần vào các suy nghĩ của ta, mang theo tình cảm, khả năng yêu thương, thì mức độ hiểu biết của chúng ta đã hoàn toàn khác.

Tiếp đến là những ý kiến cá nhân, những lý thuyết suy diễn hợp ý ta. Những điều này xưa tới nay vẫn rất phổ biến. Dĩ nhiên là chúng ta có khuynh hướng tin vào những lý thuyết của chính mình - điều đó rõ ràng là chưa hề thay đổi suốt 2500 năm nay – nhưng chúng có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng nếu như chúng không chính xác, và thường thì không dễ đáng giá tính xác thực của một lý thuyết: người thì cho rằng nó tuyệt vời, kẻ khác có thể gọi đó là lừa đảo, người khác nữa thì không biết đúng sai. Chúng ta cần tìm hiểu, chứng nghiệm từ bản thân để xem điều gì đó là tốt hay xấu.

Cuối cùng, điều gì đã được giáo huấn? Chúng có thực sự tốt như đã được rao tụng hay chúng có thể dẫn ta lạc đường? Chúng ta dễ bị choáng ngợp trước các vị thầy đạo mạo, nhưng vẻ lôi cuốn bên ngoài không bảo đảm rằng những lời dạy của họ là đúng hay thích hợp. Ngay như hiện nay, nhiều vị thầy tâm linh có khả năng tạo ra được những ảnh hưởng sâu rộng chỉ bằng sự hiện diện của mình. Dù là sự quảng báo đến đông đảo quần chúng có thể dưới nhiều hình thức mới, hiện đại hơn, nhưng nó vẫn đi từ người này sang người kia rất giống như trước kia.

Sau khi điểm qua các điều vừa liệt kê, Đức Phật tiếp:

'Tuy nhiên, nếu các vị tự nhận biết rằng: Các pháp này là thiện, không bị chê trách, được bậc tri thức khen ngợi, và nếu được chấp nhận, được thực hiện sẽ dẫn đến bình an, hạnh phúc, thì này các vị Kalama, các vị có thể tự tin mà chấp nhận chúng... Đó chính là lý do cho những lời ta vừa nói với quý vị. Bằng cách như thế đó, đoạn diệt khỏi tham, sân, với tâm sáng suốt, rõ ràng thông hiểu, tràn đầy chánh niệm, vị đệ tử chân chánh tõa chiếu tâm từ, bi, hỷ và xả đến cùng khắp thế giới.’

Nếu chúng ta đoạn diệt được các ái, tà kiến, khỏi tham sân, thì tâm không còn mê muội nữa, nó có thể phân xét rõ ràng, khách quan. Trái lại, tâm bị ô uế nặng nề bởi tham ái và sân hận thì mờ mịt. Tham và sân là những hành động hoàn toàn chủ quan, nên nếu ta có thể chế ngự chúng, thì tâm trở nên khách quan. Không còn lẫn lộn, tâm trở nên trong sáng, rõ ràng trong chánh niệm và tuệ giác. Nếu tâm đầy chánh niệm, chúng ta không thể cùng lúc phát khởi tâm sân tham. Do đó Đức Phật luôn đề cao chánh niệm, để chúng ta có thể rèn luyện quán sát bản thân và thế giới quanh ta một cách khách quan và thực tế. Điều này giúp xoá tan đi những sự tô vẻ một cách chủ quan của chúng ta đối với các sự việc. Thay vì ‘Tôi muốn như thế này’ hay ‘Tôi không muốn phải chịu đựng điều đó’, chúng ta có thể nhìn sự vật như chúng thực là.

Chánh niệm giúp chúng ta vun trồng bốn tình cảm cao thượng nhất: từ, bi, hỷ và xả - theo truyền thống được gọi là tứ vô lượng tâm hay bốn tâm thánh thiện, vì có thể vào được các trạng thái tâm này đích thực là "thiên thai"; như là lên thiên đàng. Ở các giai đoạn trong quá trình tu tập của chúng ta, ta có thể chú tâm đặc biệt vào đức tính này hay đức tính kia, dầu ta có thể hành tất cả bốn đức tính này theo thứ tự trong chỉ vài giây phút. Xả có thể phát triển dần dần thông qua tri kiến. Nếu chúng ta ít chấp vào việc muốn hay không muốn điều gì, ta sẽ có thể nhìn thấy rõ ràng hơn rằng tất cả mọi thứ đều luôn thay đổi, cho nên không đáng để ta cảm thấy bực bội về chuyện gì. Và dĩ nhiên là nhận thức này sẽ lót đường đưa ta đến xả.

Xả có vẻ bên ngoài giống như lãnh đạm, hờ hững, vì thế ta cần phân biệt rõ ràng giữa xả và các tình cảm tiêu cực khác. Hờ hững có thể được coi gần như là đối nghịch với xả, vì dầu rằng nó có vẻ giống, nhưng nó đưa đến những hậu quả rất khác nhau; nó có thể trở thành một tấm chắn sắt hữu hiệu, vì chúng ta sẽ không để bất cứ thứ gì có thể đến gần ta. Điều đó có thể khiến chúng ta phần nào cảm thấy an toàn hơn, nhưng thật ra nó biểu lộ, nhấn mạnh thêm sự thiếu tự tin của ta. Sự vắng mặt của tình thương, lòng bi mẫn trong tình cảm lãnh đạm, thờ ơ, khiến ta thêm trơ trẻn, cô đơn bên lề cuộc đời: làm người dự kiến thay vì người tham dự. Sự thờ ơ, lãnh đạm có vẻ như là một phương cách hữu hiệu để bảo vệ bản thân, nhưng thật ra sự bảo vệ tốt nhất là tình thương yêu của chúng ta. Khi nào trong tim ta còn đầy tình thương yêu, lòng bi mẫn, chúng ta hoàn toàn an nhiên, tự tại, không phải tiếp xúc với các tình cảm tiêu cực như là sân hận, ác tâm, ghen ghét, ganh tỵ, cao ngạo, chống đối hay chướng ngại. Nhờ được thanh tịnh hoá, cuộc sống nội tâm của ta do đó sẽ được bình an, tự tại.

‘Với tâm như thế, tâm đoạn trừ khỏi sân, ác ý, giải thoát khỏi lo lắng, uế nhiễm, vị thánh đệ tử chắc chắn, trong ngay kiếp sống này, được bốn điều an ủi’.

Đức Phật nhắc đến sự an ủi này với các vị Kalama chỉ vì dầu họ là những người thông minh, họ chưa phải là đệ tử của Đức Phật, và Đức Phật để tùy họ tự quyết định phải làm gì. Nhiều người trong chúng ta ngày nay cũng trong cùng hoàn cảnh – đi tìm điều gì đó để có thể vén mở những tăm tối trong tâm hồn ta, giải thoát ta khỏi những âu lo. Nhưng Đức Phật chưa bao giờ dứt khoát nói: 'Hãy theo ta!' Đức Phật chỉ chỉ bày cho ta chân lý, và con đường thực hành để chứng nghiệm. Nếu lời khuyên dạy của Đức Phật nghe hợp lẽ, ta có thể nghe theo; nếu không, ta cứ tiếp tục như trước đây. Đức Phật cũng không khuyến khích khuynh hướng từ bỏ tôn giáo riêng của ai; Ngài chỉ giảng giải giáo lý của Ngài với những ai muốn lắng nghe. Theo giáo lý đó, khi tâm không còn cần phải bám víu vào gì hay sân hận với ai, thì niềm vui nội tại sẽ phát sinh, tâm sẽ nhẹ nhàng, không vương phiền não. Ngược lại, những biện minh yếu ớt cho các hành động vô tâm sẽ tan rã khi tâm không còn vướng bận với phiền não, và trở nên thanh tịnh. Bốn sự an ủi mà Đức Phật đã giảng dạy cho người Kalama như sau:

Nếu có đời sau, có kết quả, sự chín muồi của nghiệp thiện ác, thì khi thân hoại diệt sau khi chết, ta có thể được tái sinh giữa các chúng sanh an lạc, ở cõi trời. Ta chắc chắn có được điều an ủi đó.’

Điều đó có nghĩa là, nếu ta tin tưởng rằng hành động sẽ mang lại hậu quả, và rằng có một thế giới sau khi ta chết, thì chúng ta có thể - nếu ta đã hành nghiệp thiện- tin rằng ta sẽ được thoải mái sau khi chết. Điều an ủi thứ nhất này là chắc chắn.

Mặt khác, nếu không có đời sau, không có quả, không có sự chín mùi của các nghiệp thiện ác, thì ta cũng có thể sống hạnh phúc trong cõi đời này, không có khổ đau, đoạn trừ được sân, ác ý. Ta cũng có thể chắc chắn với điều an ủi thứ hai nấy.’

Vậy là Đức Phật nói rằng nếu như chúng ta không tin vào luân hồi và rằng dựa theo đó hành động sẽ không mang đến hậu quả, thì ít nhất chúng ta cũng có thể hưởng thụ cuộc sống ngay tại đây, ngay lúc này, được giải thoát, nhờ vào tâm thanh tịnh, xa rời những ác tâm, lo lắng, buồn khổ. Chúng ta có thể chắc chắn về điều an ủi thứ hai này.

Nếu việc ác có xảy ra, tuy nhiên ta không cố ý làm hại ai, thì phiền não đâu có đến với người không ác ý? Ta có thể chắc chắn về điều an ủi thứ ba này.’

Giờ ta nói đến trường hợp nếu như không có đời sống sau đó, mà kết quả hành động của ta là ở ngay hiện đời. Trên căn bản đó, nếu chúng ta không hành ác nghiệp thì chúng ta có thể chắc chắn rằng mình sẽ không phải chịu những hậu quả xấu trong hiện đời. Chúng ta có thể chắc chắn về điều an ủi thứ ba này.

Nếu việc ác không có xảy ra, thì ta tự biết mình thanh tịnh trên cả hai phương diện (cố ý hay không cố ý). Ta có thể chắc chắn về điều an ủi thứ tư này.’

Rồi, cuối cùng là, nếu chúng ta không tin rằng hành động của ta sẽ mang lại hậu qủa nào, nếu chúng ta không tin vào nghiệp lực của nhân quả, thì ta vẫn có thể tin tưởng vào một lương tâm trong sạch. Chúng ta có thể tin tưởng vào điều an ủi thứ tư này.

Với tâm như thế, tâm đoạn trừ khỏi sân, ác ý, lo lắng, không uế nhiễm, vị thánh đệ tử ấy có thể chắc chắn về bồn điều an ủi đó ngay trong kiếp này.’

Chúng ta có thể hưởng lợi lạc từ bốn thứ an ủi này ngay tại đây, ngay bây giờ. Chúng ta không cần phải đợi đến những gì xảy ra trong tương lai để xác định là ta đã không uổng phí thời gian. Nếu ta đã không hành ác nghiệp nào, thì ta không phải sợ ác nghiệp. Nếu ta đã hành thiện nghiệp, thì ta có thể chắc chắn rằng chúng sẽ đem lại những quả thiện. Nếu không có kết quả mờ ám gì trong hành động của ta, thì ta không phải sợ rằng ác nghiệp sẽ xảy đến với ta.

Rõ ràng là người Kalama rất hoan hỷ được nghe những điều này, nên họ trả lời:

Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Với tâm không sân hận, đoạn trừ các ác kiến, giải thoát khỏi những lo lắng, uế nhiềm, vị thánh đệ tử chắc chắn về bốn điều an ủi này ngay trong kiếp sống này. Bậc Thiện thệ, Bậc thiện thệ! Giống như một việc gì đó đã bị đảo lộn, giờ được sắp xếp trở lại, hay việc gì đó đã bị che giấu, giờ lại được hiển lộ, hay như người đi lạc được chỉ đường đi, hay ánh sáng đã được mang vào trong bóng tối, để tất cả mọi người có mắt đều có thể được thấy rõ ràng. Bằng cách đó, bậc Thế tôn đã giảng giải giáo lý bằng nhiều cách. Chúng con xin nương trú nơi Đức Thế Tôn, nơi pháp của ngài, và nơi tăng đoàn! Mong Thế Tôn nhận chúng con làm đệ tử, kể từ hôm nay cho đến hết đời.’

Những lời dạy của Đức Phật đủ sức thuyết phục người Kalama đến độ họ cảm thấy muốn tự nguyện coi Đức Phật như vị thầy của họ, cũng như chấp nhận Pháp, giáo lý của Đức Phật, và tăng đoàn, là tụ hội của những ai tin theo giáo lý của Đức Phật, và như thế là họ đã trở thành đệ tử của Đức Phật.

Sự cởi mở tâm linh diễn bày ở đây khá đặc biệt vào thời điểm đó; mọi người đều hiểu rằng họ phải tự quyết định chọn lựa con đường tâm linh của mình. Chỉ có lương tâm của họ, hay lời khuyên của các bậc thiện tri thức, hay sự tự quán sát các hậu quả hành động của họ, là được đề nghị để họ phải dựa vào. Thông điệp của Đức Phật là chúng ta phải cẩn thận đừng để trở thành nạn nhân bị ảnh hưởng bởi những cơ chế tín ngưỡng khéo léo – là những điều có thể xảy ra dưới nhiều hình thức vi tế, nhất là với các vị thầy đầy lôi cuốn hay những ai được coi như những vị có quyền lực tâm linh. Và chúng ta chẳng bao giờ nên quên điều đó - không phải để khuyến khích lòng nghi hoặc đối với các vị đạo sư hay các giáo lý, mà là để xét xem trong những lời dạy đó có gì đúng với nội tâm ta.

Chúng ta là những vị thầy tốt nhất của mình, vì những gì ta cần biết, cuối cùng, cũng được tìm ra ngay chính nơi ta; và với một số phương thức để tự quán sát, ta có thể tự biết về mình bằng cách đó càng ngày càng sâu rộng hơn. Những hoài bão tâm linh của tôi dựa vào gì? Con đường tâm linh của tôi gồm có những gì? Tôi phải làm gì để thanh tịnh hoá bản thân? Tôi có tự lừa dối mình tin vào điều gì đó hay tôi hết lòng thực hành? Mục đích của kinh này là để giúp chúng ta có thể nhận thức được rằng những gì ta cần làm không chỉ là tin vào điều gì đó, mà là phải suy xét, và tự biết mình.

-ooOoo-

Chương 8

Bảy Kiết Sử

Chúng ta sống đời phạm hạnh để chế ngự và vượt qua bảy kiết sử [*]. Bảy kiết sử đó là gì? Tham kiết sử, sân kiết sử, kiến kiết sử, nghi kiết sử, mạn kiết sử, hữu tham kiết sử và vô minh kiết sử.

Nếu có người chế ngự được bảy kiết sử này, hoàn toàn đoạn diệt chúng, bứng gốc chúng như bứng cây cọ khỏi mặt đất, để chúng hoàn toàn bị hủy diệt và không thể mọc trở lại, thì có thể nói là người đó đã dứt trừ được tham ái, vứt bỏ được các kiết sử, với chơn chánh hiện quán kiêu mạn, đã đoạn tận khổ đau.

Anguttara-Nikiya vii 8-9
Tăng Chi Bộ vii 8-9 (6)

[*] Kiết Sử (hay Kết Sử): là sự ràng buộc, sai khiến chúng sanh, khiến chúng sanh toan tính, hành động không đúng với chánh Pháp và mãi chịu luân hồi sinh tử.

*

Trong bài thuyết pháp này Đức Phật nói -một cách khá ngắn gọn- về bảy kiết sử làm trở ngại chúng ta đạt được hạnh phúc, giải thoát. Phần kinh phía trên là trọn đoạn kinh. Trong bài giảng súc tích, đầy thuyết phục này, chúng ta được khuyên dạy rằng chỉ cần đoạn trừ được bảy kiết sử này, ta sẽ được giải thoát khỏi mọi khổ đau. Các kiết sử này là những trói buộc giam cầm ta, và trong nội tâm, tất cả chúng ta, đều bị giữ trong gọng kiềm của chúng. Do đó, việc đối trị chúng đòi hỏi rất nhiều nghị lực của chúng ta.

ÁI

Điều đầu tiên này nghe không giống như một kiết sử. Đúng ra nghe nó còn có vẻ như một điều gì khá tốt. Dĩ nhiên cũng tốt nếu ta có sức lôi cuốn đối với ai đó, nhưng chớ lầm tình cảm yêu thương với sự bám víu, chấp chặt, vì đó chính là nguồn gốc của bao phiền não -đó là vấn đề mà ta thường phải đối diện khi ta yêu ai đó, nhưng không hiểu rằng tình yêu là một chức năng của con tim. Thay vào đó, cái mà ta gọi là tình yêu là cái mà sự hấp dẫn, lôi cuốn ngay lập tức biến thành sự bám víu với ước muốn được chiếm hữu, và sự lệ thuộc vào việc đối tượng của tình yêu của ta có đáp trả lại sự chiếu cố của ta không. Chúng ta không thể sống mà không có sự hiện diện, quan tâm, và lòng chung thủy của họ.

Loại tình thương này luôn bị sợ hãi làm hoen ố và sân hận phủ mờ. Sợ hãi, sân hận có cùng những đặc tính tiêu cực: vì chúng ta không thể thật sự yêu những gì ta sợ, mà chính là những gì ta sợ có thể đem lại sân hận cho ta. Chúng ta sợ phải mất người ta yêu. Nói như thế không có nghĩa là ta ghét họ: chúng ta chỉ ghét cái ý nghĩ phải mất họ và tình yêu của họ.

Một khi chúng ta đã chọn lựa một hoặc hai người (trong sáu tỷ người trên trái đất) để yêu, thì dường như họ cũng phải yêu trả lại ta. Nếu điều đó không xảy ra, hay nếu ta không giữ được họ, do họ chết, hay vì họ thay đổi quan điểm, đối tượng để yêu, ta coi đó là một bi kịch. Nhưng đó không phải là cách hiểu đúng vế ý nghĩa của tình yêu hay cuộc sống, và không đúng với giáo lý của Đức Phật.

Mấu chốt của tình yêu và cuộc sống là để phát triển hơn nữa khả năng yêu thương của trái tim ta. Cũng như là tri thức thì được huấn luyện bằng sự nỗ lực nắm bắt các dữ liệu, trái tim cũng cần những cơ hội để phát triển, và bất cứ nỗ lực để thương yêu nào cũng giúp cho trái tim được trưởng thành. Mục đích duy nhất của trái tim là để thương yêu, nhưng nếu chúng ta chỉ áp dụng điều đó với một người, một số trường hợp ta chọn lựa, thì ta đã làm cho khả năng phát triển của trái tim bị hạn hẹp, và tự xây những bức tường quanh ta để giam cầm bản thân.

Khi ái kết hợp với chấp, thì sự tiến hóa của cá nhân đó bị cản trở vô cùng. Chấp là đeo bám người ta -thường chỉ là một người- và điều đó cản trở khả năng yêu thương của ta được phát triển, trong khi khả năng đó lý ra phải là vô điều kiện thì nó mới có thể tự do phát triển. Khi không có điều kiện, chúng ta sẽ không còn chọn lựa người nào đó để yêu thương, như là họ phải dễ thương, họ sẵn lòng yêu thương ta hay họ là người đã thương yêu ta trước.

Tất cả những điều kiện trong tình thương yêu chế chính tình thương của ta. Dầu hạn chế như thế, loại tình thương này lại đưa đến bao tấn bi kịch trong đời sống hằng ngày, bao nỗi sợ hãi, bao xáo trộn không ngừng trong tâm hồn ta, và nó sẽ không bao giờ có thể giải phóng được con tim ta. Giáo lý của Đức Phật là giáo lý để giải thoát mọi khổ đau. Qua sự thực hành các giáo lý này, đời sống của ta mỗi ngày đều được deã chịu hơn, nhưng đó chỉ là yếu tố phụ, không phải là trọng tâm của Phật giáo. Để có thể hoàn toàn hiểu rõ được ý nghĩa của các giáo lý, chúng ta phải hoàn toàn chuyển đổi cách suy nghĩ thông thường, và vun trồng khả năng yêu thương của ta là một phần trong quá trình chuyển đổi này. Điều này không thể tự động xảy ra, mà ta phải coi mọi giao tiếp với người như là những cơ hội để ta huân tập, rồi bắt đầu thực hành trong những hoàn cảnh này.

Cơ hội tuyệt vời là khi ta phải đối đầu với những người ta thấy khó ưa nhất, vì ta có thể phát triển tình thương yêu trong một sự liên hệ không phải lệ thuộc nhiều vào các điều kiện, và tất cả những thứ gì khác mà ta cần để ươm mầm cho tình yêu thương sẽ tự động từ đó tuôn trào. Điều này lúc đầu có thể khó thực hành, nhưng chúng ta sẽ không phải quá khó nhọc nếu như ta đã tập luyện cho mình tánh quan tâm, lo lắng đối với những người mà ta chỉ có mối liên hệ bình thường. Dĩ nhiên là yêu thương người ta có lòng ưa thích sẽ không khó khăn gì, nhưng để tập yêu thương người mà bình thường ta cũng chẳng hứng thú gì thì đó là một việc đáng thực hành. Cuối cùng ta còn phải thực tập yêu thương những người mà ta không cảm thấy ưa thích. Nhưng nếu chúng ta không cố gắng làm việc đó, thì trong tận cùng sâu thẳm, chính là ta tự làm tổn thương bản thân và trái tim ta sẽ không bao giờ được yên ổn.

SÂN

Kiết sử thứ hai, sân, phát khởi từ sự thiếu khả năng thương yêu không giới hạn của chúng ta. Phần đông chúng ta không mong đợi một cuộc sống không có sân hận, nên ta cảm thấy quá phiền phức khi cố gắng chế ngự chúng – vì dầu sao khi sinh ra đời là ta đã mang theo bao sân hận, nếu không ta đâu có mặt ở nơi này. Tuy nhiên, sân hận ở đây bao gồm căm ghét, ác ý, giận hờn, và các tình cảm này có những ảnh hưởng rất tiêu cực. Dầu tình cảm tham ái suy cho cùng cũng tai hại không kém, nhưng tình cảm sân hận này có ảnh hưởng độc hại hơn đối với chúng ta.

Phần đông chỉ cố gắng dẹp bỏ những tình cảm xung đột của họ khi chúng đã bành trướng lên thành giận hờn, căm ghét, và thường được thực hiện không đúng cách, bằng cách tránh mặt người khiến ta cảm thấy khó chịu. Đây là một hành động khó thể thực hiện, vì chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể hoàn toàn trốn tránh những hoàn cảnh khó xử, kể cả việc phải gặp gở những người khó chịu. Trốn tránh họ không phải là giải pháp; chạy trốn vấn đề không phải là cách giải quyết vấn đề. Cũng có những lúc ta bó buộc phải lùi bước trước những tình huống quá sức chịu đựng của ta. Tuy nhiên, khi điều đó xảy ra, ta phải tự thú nhận rằng ta không có khả năng thương yêu, trong mọi hoàn cảnh, hơn là viện cớ rằng vì ta không thể chịu đựng nổi người kia. Đó là sự thất bại nơi chính bản thân ta, không phải ai khác hơn.

Tất cả đều xảy ra ngay nơi tâm ta. Ta không cần một nơi chốn đặc biệt nào cho cuộc sống tâm linh, không cần y áo đặc biệt nào, không cần ngôn ngữ bí truyền nào. Chúng ta cần biết rằng tất cả tùy thuộc vào ta, rằng hoàn cảnh, trạng thái, tha nhân và ngoại cảnh, không là gì hơn là những chất kích hoạt. Chỉ khi nào ta nhìn ra được như thế, ta mới có thể cất bước trên con đường tâm linh, trái lại khi nào ta còn thấy thế giới quanh ta đáng trách, thì ta không thể tu tập được. Mong đợi người khác thay đổi tốt hơn căn bản là tự đánh lừa mình, vì cuối cùng thì ai cũng làm những gì họ nghĩ là đúng theo quan điểm của họ, không phải của chúng ta.

Bất cứ ai trong chúng ta khi gặp phải một hoàn cảnh khó xử, đều cố gắng thoát ra khỏi đó, nhưng nếu ta đang thực hành theo một con đường tâm linh thì ta chỉ bỏ cuộc sau khi đã nhiều lần cố gắng thương yêu, hoà giải với một người hay một nhóm người nào đó mà không thành công. Lúc đó ta sẽ hiểu rằng sự bực bội, căm ghét, tranh chấp là mảnh đất để ta tu tập, và những người liên quan chính là các vị thầy của ta. Họ giúp ta khám phá ra những gì đang diễn ra trong nội tâm ta.

Chúng ta sẽ hoàn toàn đánh mất sự tự do ngay khi ta để mình bị vướng mắc trong các xúc cảm của mình - dầu đó là tham hay sân. Chúng ta sẽ không có tự do nếu để tham trói buộc hay sân chế ngự – và cuối cùng thì hai loại phản ứng này sẽ đi chung với nhau, vì cả hai chỉ là biến tướng của sự bám víu, cố chấp. Càng có nhiều những quan điểm cá nhân, ta càng chất chứa nhiều xung đột trong nội tâm. Trái lại, càng tách biệt khỏi sự bám víu, cố chấp, chúng ta càng có thể phát triển tình cảm thân thiện, tương trợ đối với người.

Sự đối nghịch tích cực của sân là từ bi, và Đức Phật đã mạnh mẽ khuyên chúng ta vun trồng tình cảm đó đến với mọi chúng sanh qua thiền quán từ bi (metta bhavana).Trước hết, Đức Phật khuyên ta nên coi mọi nghịch cảnh, sự đối đầu với người như một cơ hội để tu tập. Mỗi ngày, từ sáng đến tối, chúng ta đều có cơ hội để xem người khác như thầy của mình, bất cứ khi nào ta giao tiếp và đối xử với họ với lòng từ bi; chúng ta luôn có cơ hội để hành động với trái tim thương yêu, không bám víu.

Tình thương yêu của ta bị cản trở bởi thành kiến, chỉ trích, so sánh và phán đoán, dầu chắc chắn rằng mục đích sống của nhân loại không phải là để đảm nhiệm vai trò của một quan toà, để phán xét bản thân hay người khác. Nhưng thực tế là chúng ta thường phán đoán người khác, do đó ta cần phải tự khẳng định với mình rằng hành động đó chỉ là một sự lãng phí thời gian, năng lượng và cản trở sự phát triển của một trái tim yêu thương.

Thật thú vị khi Đức Phật so sánh sân hận với sự rối loạn hoạt động của túi mật, vì ngay như bây giờ, khi ai đó nổi giận, người ta cũng bảo là họ sôi mật (sôi gan). Điều Đức Phật muốn chỉ rõ ở đây là không phải đối tượng của sự nóng giận của ta bị tổn thương, mà là chính bản thân chúng ta.

Đức Phật cũng so sánh sân hận với ngọn gió thổi trên mặt hồ nước, làm dậy sóng khiến ta không thể soi rõ mình dưới đó. Cũng thế, sân hận cản trở sự tự biết mình, vì tình cảm giận dữ không cho ta có cái nhìn rõ ràng về bản thân. Đó là nguyên nhân của bao khổ đau trong các mối liên hệ giữa người với người, của những sự đổ vỡ trong tình bạn, khiến nội tâm ta bị xáo trộn. Không biết phải phản ứng với tha nhân như thế nào, ta tránh gặp họ trừ những người mà ta có thể dựa vào sự thân thiện, lòng tốt của họ -dầu rằng ta cũng không bảo đảm là có được sự thân thiện đó. Vấn đề là sự quá bám víu vào sự hỗ trợ tình cảm của kẻ khác; chúng ta chạy đuổi theo những lời khen tặng và trốn tránh những lời khiển trách – là những việc làm phí sức và phí thời gian. Khi nào ta còn là nô lệ cho các cảm xúc và các vấn đề của mình, thì sự liên hệ giữa ta và người có thể chỉ yên ổn ở bề mặt, chứ không phải ở một mức độ sâu hơn, từ trái tim đến trái tim. Chúng ta sẽ có đủ tự tin trong các phản ứng của mình, chứ không phải đợi người khác phải thân thiện hay chấp nhận ta trước khi ta sẵn sàng đến với người –chỉ khi ta đã tu tập tưới tẳm trái tim mình- để phát triển khả năng yêu thương của chúng ta. Chúng ta phải học nhìn mọi việc như là một cơ hội để hiểu về bản thân hơn; và với cái nhìn đó, với sự hiểu biết rõ ràng hơn về bản thân, ta sẽ dễ hòa đồng với người hơn.

Bằng cách đó chúng ta có thể chấp nhận được mọi hoàn cảnh. Mọi người ta gặp đều có thể giúp ta nhìn rõ mình hơn -dầu đó là người phát thư, hàng xóm, đồng nghiệp hay chỉ là một ai đó ngồi trong chiếc xe đậu ở kế bên, hay kẻ mới vừa giành chỗ đậu xe với mình. Lúc nào chúng ta cũng có thể phát khởi tâm thương yêu đối với họ. Điều này còn dễ thực hiện hơn nhiều nếu ta nhận ra rằng tất cả mọi người đều ở trong những hoàn cảnh như nhau; nếu chúng ta có thể nhận thức được rằng dầu khổ đau chỉ là do ta tạo ra, nhưng không phải ta là người duy nhất khổ đau. Khổ đau là đặc tính chung của muôn loài, và tất cả những hoàn cảnh riêng của từng cá nhân mà ta biết tới đều là các biến thể của chung một chủ đề. Sự hiện hữu của nhân loại thắm đẫm khổ đau trong từng giây phút, từng giờ, từng ngày. Dĩ nhiên là chúng ta rất muốn gạt chúng sang một bên, nhưng điều đó khó thể thực hiện. Một khi ta biết chấp nhận điều này, cuộc sống sẽ trở nên đơn giản hơn nhiều, và khi lòng bi mẫn đối với bao nỗi khổ đau quanh ta phát khởi, ta sẽ không còn nhiều phiền não trong liên hệ với người nữa.

KIẾN

Kiết sử thứ ba bao gồm tất cả mọi ý kiến, quan điểm cá nhân để tạo nên một nền tảng qua đó ta có thể dùng để đưa ra các phán đoán. Theo Đức Phật, nói cho cùng, tất cả đều sai, vì chúng được dựa trên những cái nhìn hai chiều của ‘tôi’ và ‘anh/chị’. Quan điểm này khiến chúng ta nghĩ rằng các ý niệm về tốt, xấu của ta là tiếng nói của chân lý. Chúng ta sống trong một thế giới tương đối qua đó có rất nhiều cách khác nhau để nhìn sự vật. Do đó, ta thường thấy ý kiến của người khác với của ta. Cái mà ta thấy tốt, thấy đẹp, thì người khác thấy xấu, thấy không ưa. Chưa chứng ngộ, chúng ta không thể biết đâu là sự thật tuyệt đối –và ngay nếu như có chứng ngộ, ta cũng không thể phán đoán về điều gì đó mà được tất cả mọi người đều đồng ý, vì phàm nhân chỉ có thể chấp nhận sự thật tương đối.

Điều đó có nghĩa là chúng ta đang sống trong một thế giới huyễn hoặc, vì có sự khác biệt giữa quan điểm, ước vọng của ta và thực tại. Sự việc không bao giờ diễn ra theo như ý ta muốn, dĩ nhiên rồi, và ta sẽ phản ứng bằng sự chống đối lại với những gì không giống như ý ta mong muốn. Trên thế giới này, do đó, chỉ có những cái nhìn sai lầm, nhưng ta tiếp tục sử dụng những quan điểm cá nhân của ta như một nền tảng đạo đức mà ta dựa vào đó để sống cuộc đời mình -để ước mơ và hành động.

Trên bình diện của sự thật tuyệt đối, chúng ta không thể chọn lựa một quan điểm về sự thật; ta chỉ có thể chứng nghiệm nó. Và khi chúng ta đã kinh nghiệm được sự thật tuyệt đối, ta sẽ không còn có nhu cầu phán xét, kết tội ai, không còn cần phải nắm bắt hay xua đuổi điều gì. Khi chúng ta đã chứng nghiệm được rằng mọi thứ đều luôn bị chi phối bởi vô thường, sinh sinh diệt diệt, từ sát na này qua sát na khác, thì không còn cần phải phiền muộn về bất cứ điều gì. Nếu ta có thể huân tập sao cho tâm trí mình có thể phát triển tình thương yêu và hiểu biết, thì trở ngại lớn nhất mà ta còn phải đối đầu chính là các quan điểm của ta. Vì chúng ta đầy các quan điểm nên không thể học hỏi thêm điều gì mới lạ.

Đức Phật so sánh trạng thái tâm này với một chiếc bình đất chứa nước đầy tới miệng bình, nên không thể chế thêm nước vào. Khi đối diện với điều gì mới lạ, tự động chúng ta xét xem những điều ấy có thích hợp với các quan điểm đã thành hình trong ta không trước khi chấp nhận chúng. Nhưng dựa trên căn bản đó thì con đường ta đi sẽ bị cản trở, vì một con đường tâm linh thật sự, dựa trên sự thật tuyệt đối, không bao giờ có thể hợp với các ý kiến, quan điểm cá nhân đó. Vì thế càng có nhiều ý kiến, cuộc sống tâm linh của ta càng khó khăn. Trái lại, một thái độ cởi mở như một đứa trẻ thơ có thể giúp ta nhiều hơn, một khả năng để nhìn các sự kiện mới như chúng là mà không có thành kiến chen vào. Là người trưởng thành, chúng ta thường có thói quen bám víu vào tính đáng tin cậy của hồi ức hay thói không thể bỏ được các ý kiến chúng ta về sự vật phải như thế nào. Nhưng một trong những giây phút đại ngộ thực sự chỉ có thể xảy ra khi ta có thể nhìn sự vật như chúng là, chứ không phải như chúng ta đã tưởng tượng ra trước đó. Không được bảo đảm bởi sự khách quan tuyệt đối, những suy nghĩ chủ quan của ta không bao giờ có thể phản ảnh được thực tại, vậy mà chúng ta a dua theo bất cứ các phong trào tư tưởng thời thượng đương thời nào, khiến cho ta trở nên phụ thuộc vào ý kiến của người khác thay vì sự tự tin ở mình và tự suy nghĩ mọi sự rốt ráo.

Đức Phật đã nói Ngài chỉ là người hướng dẫn, và chính chúng ta phải ứng dụng các phương pháp Ngài đã chỉ dạy bằng cách tự kiểm chứng chúng với thực tế cuộc sống. Bất cứ đối tượng nào chúng ta hướng tới -đồng loại, bản thân, cuộc sống, thế giới- những gì chúng ta theo đuổi vẫn là những tình cảm, cảm thọ dễ chịu, với hy vọng rằng khổ đau, phiền não sẽ có thể qua đi càng nhanh càng tốt. Dĩ nhiên, hy vọng đó thật hão huyền: vì những gì tốt đẹp, dễ chịu sẽ không kéo dài và những khổ đau, khó chịu không thể đè nén chúng lâu.

Chỉ việc có thân đã đủ để khiến cuộc sống không dễ chịu. Thân luôn đòi hỏi ta phải chăm sóc nó, và vì ta đã đặt ra cho mình một trách nhiệm khó hoàn thành là giữ cho nó luôn ở trong trạng thái khỏe mạnh, không bao giờ bị gián đoạn, tâm ta sẽ luôn lo nghĩ phải làm sao để được như thế, khiến chúng ta vô cùng căng thẳng. Tự cố gắng để theo đuổi điều gì khác hơn là mục đích tâm linh - kể cả sự tìm kiếm những gì dễ chịu- đều không ích lợi cho đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh là sự tìm kiếm không phải những gì dễ chịu, mà là những gì đúng, là tuệ giác về bản chất của sự vật như chúng là.

Việc đầu tiên chúng ta quan sát được ở sự vật như chúng là, là chúng thay đổi từ giây phút này sang giây phút khác. Mỗi ngày qua đi rất nhanh và cuộc đời của chúng ta cũng qua nhanh. Tất cả những tư tưởng đã qua đi trong đầu hoàn toàn biến mất. Chúng ta có thể cẩn thận viết một vài điều xuống với chi tiết, nhưng ta sẽ không bao giờ có thể khôi phục lại được sự tinh nguyên của tư tưởng lúc ban đầu. Tình cảm và cảm xúc chúng ta nhớ lại không còn ở đó nữa, vậy mà ta vẫn tin rằng mình là một cái gì vững chắc. Khi nhìn lại những hình ảnh cũ , chúng ta có thể nói, ‘À tôi nhớ cái này’, nhưng ta không thể hoàn toàn tin tưởng vào ký ức -chúng chỉ là biểu hiện của quá khứ. Nếu ta nhìn hình ảnh của mình một cách trung thực, thì cái ý nghĩ về sự vững bền của chúng ta trở nên khó chấp nhận.

Bằng cách đó và trong quá trình thực tập tâm linh, chúng ta có thể dần dần nhận thức được rằng mỗi giây phút là một chuyển đổi, và bắt đầu hiểu được sự thật tuyệt đối là gì. Thông thường, tất cả mọi thứ chúng ta kinh nghiệm qua chỉ là tương đối, và loại thực tại này là những gì chúng ta cố gắng nắm bắt qua các giác quan, khi ta nhìn, nghe, nếm, ngửi, sờ và nghĩ. Điều đó sẽ không bao giờ là một sự thực tập hoàn toàn thành công khi nói về kinh nghiệm của những gì đang xaûy ra, vì mục đích của nó làm cho chúng ta cảm thấy dễ chịu thoải mái. Với một mục đích như thế tâm lập tức phân loại các xúc chạm giác quan nhö là dễ chịu hay khó chịu, và sẽ không có sự suy nghĩ chân chánh nào phát sinh vì mọi người nghĩ và cảm xúc khác nhau về sự vật. Một cách nhìn sự vật không thể bao giờ cũng đúng cho tất cả mọi người: tiếng chuông bò và mùi phân bò có thể gợi những kỷ niệm dễ chịu cho ai đó, trong khi người khác có thể thấy khó chịu và bực bội. Vì thế tất cả mọi việc ta cảm nhận qua mũi, mắt, tai và xúc chạm, là hoàn toàn có tính cách cá nhân và tự động liên hệ tới một cái nhìn cá nhân. Những quan điểm này làm cho cuộc đời chúng ta khó khăn và càng khiến ta sân hận và tham ái. Chúng ta luôn bị lôi kéo giữa hai tình cảm này, kéo tới kéo lui, kéo lên kéo xuống, giống như một lưỡi cưa.

Để chấm dứt tình trạng khổ đau này và tìm được sự thanh tịnh, tâm trí ta phải kết hợp với nhau để tạo ra những kinh nghiệm thực chứng. Chúng ta phải kinh nghiệm các sự kiện như chúng thật sự là, không phải như ta tưởng tượng chúng như thế nào. Đức Phật đã so sánh cách sống của chúng ta với trẻ con chơi trong căn nhà lửa. Chúng không muốn ra khỏi nhà vì chúng không muốn để lại đồ chơi - những quan niệm đã giữ chúng ta lại trong nhà. Vì thế những 'quan điểm sai lầm' không phải là việc không nắm bắt được những gì đang xảy ra trong cuộc sống hàng ngày và đưa ra những kết luận sai lầm. Mà đúng ra, chúng là biểu hiện của khuynh hướng cấu thành ý kiến, đánh giá, và phán đoán sự vật. Sự quán sát về các sự vật như chúng là, mặt khác, đòi hỏi sự thực tập, thời gian, và ý muốn nhận thức được sự thật. Với một ý chí như thế ai cũng có thể đạt được tri kiến thực sự.

NGHI

Kiết sử kế tiếp, nghi như một trạng thái cố định của tâm, đôi khi cũng được gọi là hoài nghi. Đức Phật so sánh nghi với những người lữ hành lạc hướng, đi lòng vòng trên sa mạc, mà không có bản đồ hay lương thực. Cuối cùng rồi họ cũng bị bọn cướp trấn lột và giết đi. Kiết sử nghi là khuynh hướng đối chiếu mọi thứ với những ý kiến riêng của chúng ta, và loại bỏ tất cả những gì không hợp với chúng. Nếu những suy nghĩ của chúng ta đủ mạnh, ta sẽ nghi ngờ tất cả những gì không đúng theo ý kiến của ta.

Để có thể chấp nhận một quan điểm mới mẻ, chúng ta phải chuẩn bị để nghi vấn ngay chính quan điểm của mình. Thiền quán là một phương cách hữu hiệu để bắt đầu quá trình này: bất cứ ai đã hành thiền một vài lần phải biết rằng tư tưởng của chúng ta căn bản là không đáng tin cậy. Chúng tự phát khởi lên không cần mời mọc, rồi sau đó biến mất đi. Hơn thế nữa, chúng thường là vô nghĩa. Nếu chúng ta rời khỏi chiếu thiền và tiếp tục coi những tư tưởng này là nghiêm túc, mà không nghi nghờ gì về những ý kiến mà chúng dựa vào, là chúng ta đã không tập trung khi hành thiền.

Cần phải có thời gian trước khi ta đạt đến một thời điểm trong thiền khi chúng ta có thể định tâm đến nỗi không có tư tưởng nào phát khởi lên. Ngay bây giờ thì, thiền sinh có cơ hội để kinh nghiệm sự phát khởi của các tư tưởng như là những chuyển động của tâm, cũng như hơi thở là chuyển động của thân, để nhận thấy rằng cả hai hiện tượng vừa sinh vừa diệt. Lúc ấy sự việc trở nên rõ ràng rằng các suy nghĩ của ta chắc chắn không phải là chân lý. Khi chúng ta bắt đầu đặt nghi vấn về các quan điểm và phán đoán của chính mình, ta bắt đầu được giải phóng khỏi kiết sử nghi, và có thể bắt đầu buông bỏ các quan điểm của mình để đón nhận những điều mới lạ. Lòng nghi hoặc lúc đó sẽ không còn là một kiết sử nữa mà là một sự cởi mở đối với những điều mới lạ.

Đó thật là một thử thách, vì cách suy nghĩ của chúng ta đã huân tập theo những con đường, mẫu mực quen thuộc suốt cuộc đời, và thái độ nghi ngờ đối với những gì trái ngược với chúng đã tiềm ẩn trong ta, khiến con đường tâm linh khó khăn hơn. Nó đòi hỏi một sự chuyển hướng hoàn toàn ngược lại - không phải trong cái nghĩa là không còn có thể sống trên thế gian này nữa nhưng là một sự chuyển đổi hoàn toàn trong thái độ của chúng ta.

Kiết sử nghi cũng là một vấn đề trong mối liên hệ hàng ngày của phần đông chúng ta. Không phát triển được khả năng thương yêu của con tim, chúng ta không chỉ nghi ngờ về khả năng của chính mình, chúng ta còn cho phép mình chấp nhận sự nghi ngờ của người khác về mình. Một thái độ như vậy hoàn toàn không cần thiết: nếu người khác không chấp nhận chúng ta, đó là thái độ và nghiệp của họ. Đó là điều tiên quyết chúng ta cần nhận thức- rằng bất cứ điều gì người khác làm đó là vấn đề của họ, không phải của chúng ta, ta không cần phải phản ứng lại. Chúng ta thường vội vàng xem những phản ứng của người khác đối với ta như là một điều gì đó có liên quan đến ta, trong khi thật ra chúng chỉ là những việc ngẫu nhiên xảy ra hàng ngày ở quanh ta. Chúng ta không cảm thấy phiền muộn bởi những gì một người nào đó ở Phi Châu có thể nói hay làm vào lúc này; vậy thì tại sao, ta lại bị phiền toái bởi những gì người láng giềng của ta vừa nói hay làm - là một điều thật ra cũng chẳng quan trọng gì với ta? Điều quan trọng trong quan hệ giữa ta với người là phát triển tình thương yêu đối với nhau.

Khi lòng hoài nghi còn hiện hữu, chúng ta không bao giờ có thể chắc chắn rằng một điều gì đó có ích lợi, tốt đẹp cho chúng ta không, ta có khả năng thực hiện một điều gì đó không, hay người khác có vui lòng, có chấp nhận điều gì đó không. Để có thể thực hành theo lời dạy của Đức Phật, chúng ta trước hết phải chấm dứt cách suy nghĩ này. Chỉ khi thực hành rồi chúng ta mới có thể khám phá ra là chúng có tốt, có hữu ích hay không và chúng sẽ có những ảnh hưởng gì.

MẠN

Kiết sử mạn (tự cao) bao gồm có lẽ không nhiều về thái độ cao ngạo, tự phụ, mà là sự tin tưởng, về mặt tri thức và tình cảm, rằng có một điều gì đó về chúng ta thường hằng, cá biệt, cần được bảo vệ. Đây là một trong những kiết sử nguy hại nhất. Ngã mạn, niềm tin rằng chúng ta là một ai đó –hay hơn nữa, là một người đặc biệt, một người thông minh hơn người - là hình thức căn bản của tự cao, tạo nên bao vấn đề không dứt cho ta, và sẽ tiếp tục khiến cuộc sống thêm căng thẳng nếu như ta vẫn khư khư bám lấy nó. Đó là cái ngã khiến ta ảo tưởng rằng mình hiểu biết, và chạy đuổi theo những gì mang lại cho ta sự thoải mái, dễ chịu, trốn tránh sự khổ đau, khó chịu. Ngã là một ảo tưởng, một huyễn hoặc mà tất cả nhân loại đều tin vào đó, khiến cho không biết bao thảm họa đã xảy ra. Lý do duy nhất khiến nhân loại tạo ra chiến tranh, dối trá, sát hại, tham ô là vì họ muốn được an toàn, muốn bảo vệ cái ngã của họ.

Chúng ta tin vào cái ngã cũng giống như ta tin vào tất cả mọi vọng tưởng khác. Ngã mạn đã sẵn ươm mầm trong quá trình tư duy của chúng ta, do đó nó đã cắm rể sâu trong lãnh địa cảm xúc của ta: nếu ta nghĩ về vấn đề gì đó đủ lâu, ta có thể cảm giác được nó. Khi nào ta còn tự nhìn mình như những con người tách biệt, và tiếp tục suy nghĩ theo cách đó, ta sẽ tiếp tục có những tình cảm ‘Tôi, của tôi’ là nguồn gốc không dừng dứt của bao vấn đề, bao phiền não. Chúng ta sẽ tiếp tục coi màn kịch này, và nền tảng mà ta dựa trên đó để đóng vai trò của mình, một cách tuyệt đối nghiêm chỉnh. Khi chúng ta ngồi trước màn ảnh truyền hình để xem một vở tuồng, ta không coi nó là thực –nhưng đối với cuộc đời thì ta coi thật sự nghiêm trọng, dầu rằng căn bản thì nó cũng được dựng thành bởi những điều tương tự.

Ngã mạn là gốc của mọi vấn đề, các vấn đề khác phát sinh từ đó, và chúng ta không thể hy vọng sẽ giải quyết được nó ngay lập tức – các kiết sử tham sân và nghi cần được chuyển đổi trước. Con đường hành đạo theo sự hướng dẫn tâm linh của Đức Phật không phải là để hủy diệt tự ngã, mà là để chúng ta có thể buông bỏ, và nhìn thấu suốt ngã tưởng, để một ngày ta có thể nhận ra rằng tất cả mọi lăng xăng, bao lo toan của ta không để làm gì cả, và cuộc đời ta sẽ giống như một cuộn phim đang diễn ra trước mắt ta.

ĐỐ KỴ

Kiết sử đố kỵ, ganh ghét là một biểu hiện của sân và sự thiếu vắng tình thương yêu. Nó phát sinh từ sự thiếu hiểu biết rằng chúng ta thuộc về một tổng thể mà bản năng muốn tách biệt chỉ có thể làm nguy hại cho ta. Do đó, nó có thể được đối trị bằng tâm hoan hỉ, lòng thông cảm, phát sinh từ nhận thức rằng tất cả chúng ta tùy thuộc vào nhau và không có gì khác nếu ta hay ai đó được điều tốt lành nào. Tất cả chúng ta đều có mặt ở đây trên trái đất này với nhau, cùng như tất cả chúng ta đều được cấu tạo bởi những thành phần giống nhau. Dầu có ý thức được điều đó hay không, tất cả chúng ta đều tương quan với nhau. Nếu thảm hoạ xảy ra ở một nơi nào đó, tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng. Khi chiến tranh bùng nổ ở một nơi nào trên thế giới, thì những chấn động tiêu cực cũng lan đi khắp hành tinh nhỏ bé này. Dĩ nhiên khi điều tốt lành xảy ra cũng giống như thế, niềm hân hoan thông cảm cũng phát đi những chấn động tích cực, chế ngự sự phát khởi của lòng ganh tỵ.

Đức Phật đã khuyên chúng ta chỉ cần vun trồng bốn loại tình cảm, không cần gì khác hơn. Chúng được gọi là 'brahma vihara' hay tình cảm thánh thượng. Đầu tiên là một trái tim thương yêu vô điều kiện, thứ hai là lòng bi mẫn, thứ ba là tâm hoan hỷ (đối nghịch với lòng ganh tỵ), và từ những tình cảm này phát sinh tâm xả, là điều thứ tư và cao thượng nhất của mọi tình cảm.

CHẤP NGÃ

Kiết sử cuối cùng -được dịch thẳng từ tiếng Đức Selbstsucht (self-addiction), mà tôi dùng ở đây để nói đến kiết sử này- là sự bám víu vào ngã. Chúng ta quá quan tâm đến cái ngã của mình, hay là những gì mà ta coi là ngã. Ngoài nó ra, ta không thấy điều gì tốt lành ở người hay ở hoàn cảnh mà ngã không quan tâm đến. Chúng ta hoàn toàn tập trung vào những vấn đề của ngã; điều quan trọng là ta phải xét xem cuộc đời mình được tạo dựng trong sự ích kỷ đến mức độ nào và để nhận thức rằng điều đó thật sự đã làm cuộc sống hàng ngày của ta khó khăn đến độ nào - rằng không có bất cứ kết quả tích cực nào có thể phát sinh từ đó. Lòng ích kỷ ngăn trở sự hình thành của bất cứ sự thực hành tâm linh nào, khiến cho lý tưởng về tình thương yêu vô điều kiện vẫn là một ảo tưởng vô vọng. Nếu cái ngã là trung tâm điểm của mọi việc và không có gì quan trọng hơn, thì ta không thể nào diệt trừ được sân hận vì bất cứ điều gì có thể đe dọa cái ngã hay khiến nó lo sợ phải đánh mất sự hỗ trợ mà nó mong muốn, sẽ bị chống đối.

Tánh ích kỷ là một thái độ luôn có mặt, hình thành theo thói quen và rất phổ biến: tất cả nhân loại đều coi rằng mình rất quan trọng và cả thế giới phản ảnh sự chấp ngã này. Những khó khăn mà một cá nhân phải đối mặt có thể truy nguồn từ ngã chấp. Chỉ khi nào ta có thể quán sát về điều này một cách nghiêm chỉnh, thì ta mới không tưởng tượng rằng nếu buông bỏ cái tôi sẽ là một thiệt hại, và không thể tránh khỏi thất bại. Sự thật là điều ngược lại; đó mới chính là cách để đoạn trừ những vấn đề của chúng ta. Điều này cũng chẳng mới lạ gì, vì những hành động và cách sống theo thói quen, dựa trên chấp ngã, đã đưa ta đến không biết bao nhiêu vấn đề (không kể đến việc nghiện rượu hay các chất độc hại khác). Chỉ việc bảo vệ cái ngã một cách điên cuồng và đặt nó ở trung tâm của mọi hành động của chúng ta cũng đủ khiến cuộc đời thêm khó khăn. Nó luôn là nguyên do đưa đến sự xung đột, hiềm khích giữa người với nhau, tất cả cùng với một sự chấp ngã như nhau.

Việc buông bỏ cái ngã chỉ có thể xảy ra khi ta có tri kiến. "À, điều đó nghe cũng tốt – tôi sẽ thực hành buông bỏ nó", tự nhủ mình như thế chưa đủ, vì nó không dễ dàng như thế. Chúng ta cần phải thực tập buông bỏ trong cuộc sống hằng ngày cũng như khi hành thiền, đối mặt với nó từng phút giây. Suốt con đường tâm linh là một cuộc hành trình của sự buông bỏ -đó là, buông bỏ mà không trước hết phải có sự thay thế. Tuy nhiên ở cuối cuộc hành trình, một khi chúng ta đã buông bỏ tất cả, Đức Phật bảo rằng chúng ta sẽ được tự do, chấm dứt mọi đau khổ- một cuộc đời không bám víu, đoạn diệt sân hận, thoát khỏi tà kiến, khỏi nghi, khỏi tự cao, khỏi ganh tỵ và khỏi chấp ngã.

Sống được như thế sẽ giúp chúng ta hỗ trợ người khác đi cùng con đường. Những người đang tìm kiếm sự giải thoát cho chính mình thường có thể cảm nhận và cuốn hút theo tinh thần giải thoát ở người khác. Đây là những lời dạy của Đức Phật và cơ hội để thực hành chúng dành cho tất cả mọi người.

-ooOoo-

Chương 9

Bốn Pháp Cơ Bản

Có bốn pháp cơ bản, được coi là xác thực, lâu đời, được lưu lại từ truyền thống xưa.

Giá trị của chúng không hề suy chuyển từ xưa đến nay, và sẽ còn mãi vững bền. Người trí, dầu là tỳ kheo hay cư sĩ, đều không thể bài bác. Bốn pháp cơ bản đó là gì?

Vô tham là một điều dạy cơ bản, được coi là xác thực, ... vô sân là một điều dạy cơ bản, ... chánh niệm là một điều dạy cơ bản, ... chánh định là một điều dạy cơ bản....

Tham diệt, ta sẽ được an,
Không còn dấu vết hận thù trong tim;
Với định và niệm bên trong,
An bình, ổn định ta thì được ngay.

Anguttara Nikaya iv.29
(Tăng Chi Bộ iv.29)

*

Trong bài thuyết pháp này, Đức Phật đề cập đến bốn nguyên tắc cơ bản: vô tham, vô sân, chánh niệm và chánh định. Bốn pháp căn bản này, được nhắc đến trong nhiều bài thuyết pháp của Đức Phật, đôi khi còn được coi là bốn chủ đề chánh trong cuộc sống tâm linh. Khi Đức Phật dạy rằng chúng xác thực, lâu đời, truyền thống, rằng chúng có giá trị hôm nay cũng như trong quá khứ, và chúng sẽ vẫn còn giá trị trong tương lai, chúng ta có thể kết luận rằng chúng không phải chỉ đặc biệt trong riêng cộng đồng tôn giáo của chúng ta, tính xác thực của chúng không bị chi phối bởi lòng tin nào –hay sự thiếu lòng tin nào- của chúng ta. Giải thoát khỏi tham, giải thoát khỏi sân, chánh niệm và định tâm là điều kiện thiết yếu cho một cuộc sống an lạc, cũng như trên con đường đạo. Và sự tuyên bố của Đức Phật rằng chúng sẽ luôn có giá trị đối với ngày nay vẫn đúng cũng như đã đúng hơn 2500 năm trước; chân lý đó dễ dàng được chấp nhận. Nếu chúng ta có thể nhận ra được rằng chúng mang một thông điệp cho quá khứ, hiện tại và tương lai, thì điều này có thể tạo cho chúng ta đủ lòng tin vào những lời dạy này, cho phép chúng ta phát triển được những trạng thái tâm căn bản này ở bản thân.

Chúng ta đã có sẳn bốn đặc tính này. Phát triển chúng có nghĩa là làm cho chúng đủ mạnh để có thể nghiêng cán cân thăng bằng về hướng chúng và chế ngự sự yếu đuối thường có khuynh hướng cản trở chúng trong ta. Trái ngược lại với chánh niệm là vô tâm, trái ngược với định tâm hay sự tự tại là sự bất ổn tình cảm, trong khi vô tham và vô sân thì trái ngược lại, hiển nhiên, là với tham và sân. Ta càng bồi dưỡng sự thánh thiện, tinh xảo trong ta, thì các yếu tố uế nhiễm, xấu xa càng khó phát khởi, cho đến một ngày nào đó, ta sẽ không còn phải đối phó với chúng ở bất cứ nơi đâu, lúc đó nội tâm an bình, thanh tịnh sẽ hiển bày.

Chánh Niệm

Chúng ta bắt đầu với chánh niệm, vì chánh niệm luôn đứng trước tiên trong bất cứ sự thực hành nào. Không có chánh niệm sẽ không thể học hỏi được gì, nói chi đến việc tự hiểu mình. Tất cả chúng ta đều sử dụng chánh niệm trong những sinh hoạt hằng ngày như quay đúng số điện thoại, dán đủ tem trên bì thư. Ở sở làm, ta cũng cần có chánh niệm mới có thể hoàn thành công việc của mình tốt đẹp, vì nếu không ta sẽ khó giữ được việc làm.

Loại chánh niệm đó thật rất cần thiết, vì nó là một đòi hỏi thiết yếu trong cuộc sống. Chúng ta bắt buộc phải sử dụng nó vì không còn cách chi khác nữa. Chúng ta sử dụng nó cùng với một mục đích như khi ta làm việc -chính là để sinh tồn. Tuy nhiên, sự chánh niệm này chỉ có thể biến thành một yếu tố tâm linh, nếu như ta áp dụng nó ngay trên bản thân mình. Chúng ta có thể bắt đầu bằng cách quán sát bản thân một cách khách quan -bằng cách đó để có thể hiểu được bản thân- và dựa vào đó thay đổi cho tốt hơn.

Chánh niệm chỉ biến thành một yếu tố tâm linh khi nào ta áp dụng nó ngay nơi bản thân, và sự quán thân chánh niệm này là một công việc rất thú vị. Chúng ta sẽ cần thường xuyên chánh niệm về môi trường quanh mình -đó là, biết chuyện gì đang xảy ra quanh ta- nhưng không phải để chỉ trích hay phán đoán, vì tính phán đoán là một trạng thái tâm tiêu cực, có tác động tai hại. Ngay cả khi thế giới quanh ta trở thành đối tượng của sự chú tâm của ta, có nhiều trường hợp, trong đó, ta có khuynh hướng phản ứng lại, nhưng nếu có chánh niệm, ta cũng có được đôi điều lợi ích từ đó. Thí dụ, khi chúng ta phản ứng lại với những gì một người nào đó đã nói, hay với vẻ bề ngoài, với hành động của ai đó, thì sự chánh niệm có thể biến đổi mọi thứ, bằng cách cho ta một cái nhìn sáng suốt hơn về cuộc sống nội tâm của mình. Rồi mọi thứ sẽ trở nên rõ ràng vì sao quanh ta hay trong ta được an lạc. Mọi người đều bị dính mắc trong chính các phản ứng của họ, lúc nhiều lúc ít, đôi khi ồn ào, lúc lắng đọng. Có những lúc ta phải ghìm nén các phản ứng của mình, lúc khác lại cho nó tuôn tràn. Kết quả có thể khá nguy hại, vì tư tưởng và hành động tiêu cực có thể chất chứa lại trong tâm, là nơi chúng sẽ được hình thành chặt chẽ hơn, để tới lần sau chúng sẽ còn bùng nổ nhanh chóng hơn.

Chánh niệm khiến ta nhận biết được các phản ứng này, nhận thức được rằng chúng không đem lại lợi ích gì cho ta. Đúng ra, cá nhân hay hoàn cảnh đã châm ngòi cho các phản ứng tiêu cực của ta không hề hấn gì. Chỉ có chúng ta là bị thiệt thòi.

Chánh niệm giúp chúng ta ý thức được các trạng thái tình cảm, các đối tượng suy tư, và cho phép ta chuyển hoá các tình cảm tiêu cực thành tích cực. Đặc biệt trong những trường hợp khi ta có thể cảm nhận được các trạng thái tình cảm của ta, trước khi ta bị dính mắc vào đó. Một khi đã vướng vào các trạng thái tiêu cực, thì tự tháo gỡ ra sẽ khó khăn hơn nhiều. Điều quan trọng là ta phải thường xuyên mang chánh niệm soi đến các trạng thái tình cảm của mình. Một trạng thái u buồn thường khiến ta tô lên mọi thứ một màu đen, ngược lại một trạng thái vui vẻ, dễ chịu lại thay đổi hoàn toàn cái nhìn của ta. Dĩ nhiên đây là cách người ta tạo ra những cái nhìn khác nhau về sự vật. Chúng ta thường hoang mang khi người khác không nhìn thấy vấn đề giống như ta nghĩ, rồi kết luận rằng họ không biết phân biệt, kém thông minh, trong khi thật ra là do trạng thái tình cảm của họ đã khiến họ phản ứng khác ta.

Điều quan trọng nhất trong công phu tu tập là chánh niệm về thân, bao gồm ý thức về các oai nghi và chuyển động của thân. Cũng dễ thực hành điều này vì thân thì rõ ràng, xúc chạm được, trong khi các trạng thái tình cảm và quá trình tư duy thì không thể nắm bắt và ta chỉ có thể kinh nghiệm được chúng khi chúng đã xảy ra trong tâm. Chánh niệm về thân là cần thiết để sinh tồn, nhưng tôi đoan chắc rằng một vài chuyển động vô thức thông thường có thể bộc lộ khá nhiều về ta. Nếu chúng ta có thể quán sát mình đủ cẩn thận -chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi như thế nào - ta bắt đầu nhận biết về các ngôn ngữ của thân, cách nó biểu lộ tư tưởng, tình cảm của ta, và chúng ta sẽ có thể, nếu cần, khiến chúng trở nên khéo léo tế nhị hơn.

Lý do tầm thường nhất để chánh niệm về thân trong những sinh hoạt hằng ngày là để ta tránh đứt tay, té ngã, hay đụng đầu. Nếu chúng ta không phải lo về những tai nạn này, ta sẽ không chú tâm, cho đến khi tai nạn xảy ra khiến ta phải ân hận sau này. Dầu thế cũng chưa chắc là ta có thể hiểu được mình, ngoài việc ngầm nói 'tôi là như thế đó'. Tuy nhiên, nếu chúng ta có thể sử dụng lợi thế của người quan sát về các hành động của mình, ta sẽ có khả năng để phán đoán những sửa đổi nào là cần thiết và khả thi.

Dĩ nhiên việc đọc được các hành động đầy cá tính của người khác thì dễ dàng hơn là tự nhận ra các ngôn ngữ của bản thân mình. Thật vậy, đó là cách chúng ta đánh giá đúng nhất về người. Chúng ta thấy dễ hiểu người khác qua hành động của họ hơn là ý nghĩa lời nói của họ. Chuyện thường xảy ra là ai đó có thể nói đúng, nhưng cách nói không thuyết phục. Đó bởi là vì thân và lời nói không đi đôi với nhau, và chúng ta có thể cảm nhận được điều đó -ta cảm thấy thân họ biểu lộ điều gì đó khác với lời họ nói. Rõ ràng, những sự quán sát đó nơi người khác có thể giúp ta phát hiện được sự khác biệt giữa lời nói và cử chỉ của mình, và bằng cách đó giúp ta hiểu được bản thân hơn. Sự quán sát khách quan như thế không phải là chỉ trích hay phán đoán. Đơn giản đó chỉ là cách để học hỏi từ người khác những hành động, cử chỉ nào là ích lợi hay có hại.

Chúng ta có thể thực hành chánh niệm ở bốn lãnh vực: thân, thọ, tâm và pháp (dầu các lãnh vực này tương quan nhau, và không thực sự tách biệt). Bốn lãnh vực này thường được gọi theo truyền thống là bốn căn bản chánh niệm. Chánh niệm về thân, chúng ta đã vừa bàn qua. Chánh niệm về thọ là sự ý thức xem một cảm thọ là lạc, khổ hay trung tính. Chánh yếu là những cảm giác ở nơi thân, nhưng cũng liên quan đến cảm xúc, và chúng có thể dẫn đến những phản ứng mãnh liệt trong tâm tư ta. Các cảm giác đau đớn, khó chịu nơi thân có thể kèm theo trạng thái tâm bực dọc, cũng như những phản ứng tâm tiêu cực. Như thế ta có thể thấy rằng cảm giác, tình cảm và tâm thức đi chung với nhau.

Các trạng thái tình cảm khó nhận biết hơn là các phản ứng tâm thức, hình thành nội dung tư tưởng của ta. Trong bốn lãnh vực, chúng ta chánh niệm về lãnh vực nào không quan trọng, nhưng ta phải đặt trọng tâm vào một trong bốn nếu ta muốn hiểu rõ về mình hơn, vì chỉ khi biết rõ mình, ta mới có thể biết được những gì đang xảy ra trên thế giới. Một khi ta đã trở thành đối tượng quán sát của chính mình thì rõ ràng thế giới quanh ta, tha nhân, và cả bản thân chúng ta, tất cả đều có những đặc tính cơ bản giống nhau.

Các nghiên cứu khoa học thành công có thể mở mang thêm tri thức cho ta, nhưng chỉ có thế; chúng không mang được cho ta nội tâm an bình. Ngược lại, sự quán sát bản thân có thể không làm tăng thêm kiến thức của ta, nhưng nó phát triển trí tuệ và mang lại thanh tịnh cho ta. Chính vì nhiệm vụ này mà ta cần đến chánh niệm. Chúng ta sẽ hiểu được một trong sáu tỷ người trên thế giới này, và nhận thức được rằng dưới những vỏ bề ngoài khác biệt, thực sự chúng ta rất giống nhau. Ta cũng sẽ khám phá ra được điều gì ích lợi cho ta và điều gì có thể kéo ta xuống vực thẳm.

Đức Phật luôn đặt chánh niệm ở trọng tâm của con đường hành đạo, vì nhờ có chánh niệm ta mới có thể hiểu được bản thân và thế giới đúng như chúng là. Tất cả chúng ta đều quen thuộc với một loại thực tại qua đó mọi người có vẻ như là một thực thể tách biệt, mỗi cá nhân hướng đến những gì họ thích; tầng thức ở đó ta tự đồng hóa mình với người thân cận, với sở hữu, với công việc của mình, và trong phạm trù đó ta lại sống tách biệt với những người khác và môi trường chung quanh. Ở cấp độ đó sẽ không bao giờ có sự bình an vì mỗi người là một vương quốc biệt lập, không thể xâm phạm. Với công phu tu tập chánh niệm, chúng ta có thể nhận ra rằng trong thực tế tất cả chúng ta đều tương quan, liên hệ lẫn nhau, hợp thành một tổng thể mà ta không thể có cách nào hiện hữu khác hơn. Tất cả chúng ta đều thở cùng một bầu khí quyển, cùng chết nếu không có nó; ta chia sẻ tất cả mọi điều kiện căn bản để cùng hiện hữu, kể cả việc tùy thuộc lẫn nhau. Qua chánh niệm ta biết rằng thân và tâm có thể gây bao khó khăn cho ta, và điều đó không ngoại lệ chúng sanh nào. Như thế ta sẽ củng cố thêm tình đoàn kết với tất cả chúng sanh, là một điều rất quan trọng trong việc làm giảm bớt khó khăn cho ta.

Vô Sân

Vô tham và vô sân là những điều dạy khác mà Đức Phật cũng coi là căn bản đối với đời sống đạo. Không ai nghi ngờ về sự đáng có mặt của các đức tính này, nhưng một số người nghĩ rằng sân là một phản ứng hợp lý đối với những điều bất thiện. Cũng như phần lớn các quan điểm của chúng ta, ý nghĩ này, dầu là rất phổ biến, cũng hoàn toàn sai. Theo Đức Phật, chúng ta chỉ có thể đạt được giải thoát bằng cách buông xả tất cả mọi quan điểm của mình một cách rốt ráo, và thay thế chúng với chân lý của những kinh nghiệm thực chứng.

Sân nộ đối với những điều xấu không thể làm giảm đi bao tiêu cực trên thế gian. Nó chỉ làm tăng trưởng thêm sân hận trong lòng ta, khiến ta thêm khổ sở. Và điều này lại cộng thêm vào niềm hận thù chung trên hành tinh của chúng ta, khiến bao vấn đề của ta bị nhân lên, dầu trong gia đình, ở sở làm hay giữa các quốc gia.

Sân nộ dưới hình thức nào cũng làm kiệt quệ tình cảm vì nó tiếp tục xâm lấn sự bình an trong tâm ta. Nhiều người chẳng bao giờ đi đến chỗ thực sự bắt đầu giảm lòng sân hận của mình vì họ quan niệm rằng họ có quyền căm ghét bất cứ điều gì làm tổn hại họ. Họ đã hoàn toàn đồng hoá mình với những gì mà họ xem là đúng, và cảm thấy có quyền được bày tỏ sự phẫn nộ đối với những gì họ nghĩ là sai, đưa đến một kết quả không thể tránh khỏi là không có hoà bình trong tâm họ cũng như trong thế giới quanh họ. Trái lại, chỉ có một cuộc chiến dằng co trong tâm họ giữa sự chấp nhận và kết tội. Chính Đức Phật đã nói, hận thù không thể giải hận thù, chỉ có tình thương mới làm được điều đó.

Chấp nhận được điều gì mà mình cho là xấu là một thách thức lớn. Chúng ta có thể khởi đầu bằng cách tự hỏi mình -khi ta cảm thấy sân, hờn hay giận ghét, khinh thị ai- những tình cảm này có đem lại điều gì lợi ích cho ta không? Đây là bước khởi đầu nên ta rất cần đến sự trợ giúp của chánh niệm. Dầu tình cảm sân hận của ta đúng hay sai, đó không phải là điểu đáng bàn, quan trọng là chúng ta cảm thấy thế nào trong nội tâm. Một khi đã thực tập chánh niệm về các tình cảm sân hận, cay cú trong ta một vài lần, ta sẽ nhận thức được rằng trạng thái tâm tương ứng với các tình cảm ấy không dễ chịu chút nào. Sẽ có lúc những câu hỏi sau khởi lên trong ta: 'Tất cả là cho cái gì? Tại sao tôi phải khiến cuộc sống của tôi thêm khó khăn với các tình cảm này?' Suy cho cùng, người mà ta căm ghét, khinh bỉ hay không chịu nổi thường không biết chi nhiều về các tình cảm của ta. Phần lớn các tình cảm này cũng chỉ là những ý nghĩ trong đầu ta vì ta muốn tránh sự va chạm, cãi vả hay đối đầu công khai có thể xảy ra từ việc bộc lộ chúng ra bằng lời nói.

Ở một giai đoạn nào đó khi ta đã đạt được tri kiến, ta sẽ nhận thức được mức độ mà tư tưởng bất thiện có thể làm nẩy sinh ra những trạng thái tâm không bình yên, hoang vắng, ngăn cản mọi tình cảm vui vẻ, phấn khởi trong ta, và sân hận có thể biến thành trạng thái điên cuồng như thế nào, làm phát sinh những sự nung nóng tình cảm đáng sợ, khiến người ta giận đến tím tái.

Nếu muốn chuyển đổi, ta phải nhận ra rằng chỉ tự mình ta tạo ra cuộc sống nội tâm của mình, không ai khác chịu trách nhiệm cho việc đó. Vì thế, ta cần phải có khả năng nhận diện được sân hận, oán hờn hay ghẻ lạnh khi chúng phát khởi trong ta, với sự hiểu biết rằng chúng không đem lại chút hạnh phúc nào cho ta. Khi đó, có lẽ ta cũng nên 'vun trồng' điều ngược lại - như Đức Phật đã dạy- dầu rằng việc thay thế lòng sân hận, nhẫn tâm với lòng từ bi thì không dễ.

Điểm mấu chốt của cả quá trình này là sự nhận thức được rằng những tình cảm tiêu cực này chỉ làm hại chính ta. Càng có nhiều sân hận, oán thù trong lòng, cuộc sống của ta càng khó khăn, và ta càng thấy xa cách với mọi người. Tuy nhiên, điều lợi ích lớn nhất của các trạng thái tình cảm này -nếu chúng ta có thể quán niệm chúng- là nỗi đau khổ khiến chúng ta thực sự muốn thay đổi điều gì đó. Những người có tánh sân thường dễ đi theo con đường đạo vì họ không có được sự an bình trong nội tâm.

Điều quan trọng ở giai đoạn này là phải biết rằng khi ta tự quán sát bản thân thì ta mới có thể có những chuyển hoá sâu xa. Sự chuyển hoá này không thể thay đổi cả thế giới -ngay cả Đức Phật hay chúa Jesus của Nazareth cũng không làm thế được. Thế giới ngày nay rất khác thế giới của 2500 hay 2000 năm trước. Dân số đã tăng lên nhiều và đã có biết bao tiến bộ kỹ thuật vượt bực. Nhưng những khó khăn của cá nhân chúng ta căn bản cũng như xưa, vì lòng hận thù, chiến tranh và khổ đau vẫn luôn tiếp diễn. Chúng ta khó thể biến thế giới thành tốt đẹp hơn, nhưng chúng ta có thể khiến cá nhân mình tốt hơn, và đó là điều tốt đẹp nhất ta có thể đóng góp cho thế giới.

Vì thế không ích lợi gì để khiển trách người khác hay kết tội họ thiếu trách nhiệm. Khi chúng ta có thể tạo ra an bình trong nội tâm, là ta đã tạo ra thêm hoà bình trên trái đất này, bởi ít nhất là cá nhân mình, và cũng có thể ảnh hưởng đến những người quanh ta -một sự ảnh hưởng hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh và ổn định của một nội tâm thanh tịnh. Một khi đã biết điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào chúng ta, rằng đó là bổn phận của ta, và ta đã quyết định không muốn tiếp tục sống như trước đây, chúng ta sẽ khám phá ra mình tự nhiên thường kiểm soát các cảm xúc trào dâng bằng cách chánh niệm hơn về các cảm thọ của mình, và bằng cách đó chúng ta thoát khỏi những dằn thúc, xung đột nội tâm. Ta nhận ra rằng mình cảm thấy bực bội vì không có được điều mình muốn, và giận dữ khi phải lấy cái ta không thích, và ta cũng sẽ thấy rằng sự phản kháng lại những sự việc này cũng có thể được chấm dứt.

Với sự hỗ trợ của chánh niệm và phương pháp tự quán sát mình do Đức Phật đề ra, chúng ta đã ở tư thế sẵn sàng để bắt đầu vun trồng những tình cảm tích cực, trái ngược lại với các tình cảm tiêu cực này. Khó thể chuyển đổi sân hận thành thương yêu, nhưng ít nhất chúng ta cũng có thể thay thế sân hận với bi mẫn. Nếu ai có gây khó khăn cho ta, trước hết ta có thể nhận ra rằng chính họ cũng phải đối đầu với bao vấn đề như chúng ta. Ta phải nhớ rằng người này suy cho cùng cũng không khác gì ta, những sự khác biệt chỉ là ở ngoài mặt. Chỉ cần liên hệ với người khác, ta sẽ nhận ra rằng tất cả chúng ta đều tương quan nhau trên một bình diện sâu hơn. Người khác cũng lập tức chia sẻ kinh nghiệm của bản thân họ khi ta tiếp chuyện với họ, nhìn họ hay đơn giản là ở cùng một nơi với họ. Đồng thời ta cũng không thể biết những gì họ đã trải qua –thí dụ, những mất mát, đau khổ gì- nên nếu ta xem họ như những người không đáng cho ta quan tâm, hoặc nghĩ họ không tốt bằng ta, thì hoàn toàn không thích hợp. Điều này đúng trên nhiều lãnh vực, dầu trong gia đình, ngoài xã hội, hay trên cả thế giới. Là con người ta phải biết tất cả những gì tốt, xấu trong nội tâm mình. Sống theo con đường đạo có nghĩa là phải phát triển, củng cố cái thiện để điều xấu bị đẩy lùi về phía sau. Có lẽ trong muời người thì chín đã sống theo nguyên tắc là tự bằng lòng với những cái tốt của mình, và biện minh cho cái xấu bằng cách đổ lỗi cho người khác, nhưng ai muốn đi theo con đường đạo thì phải chọn lựa một thái độ hoàn toàn khác.

Có rất nhiều phương cách để vun trồng vô sân. Cách tốt nhất là quán từ bi – metta bhavana, là điều chắc chắn có thể đóng góp đáng kể vào việc phát triển một thái độ tích cực hơn. Tuy nhiên, chỉ có thế thì chưa đủ, cuộc sống hằng ngày cho ta biết bao cơ hội để thực hành bằng cách tỏ ra thân thiện, dễ thương. Sự bình đẳng trong cách đối xử cơ bản với người, sự liên hệ, tình thương yêu, bằng hữu, chỉ có thể được phát triển bằng cách bồi dưỡng cho chúng thêm lên trong mọi hoàn cảnh. Thí dụ, ta có thể phát triển nó đối với người ta mới quen, với những người ta chỉ có liên hệ chung chung trong các sinh hoạt đời thường. Chúng ta cần phải nhắc nhở bản thân về mục đích của mình từng giây phút trong ngày, vì tâm rất dễ quên. Ta lại cần đến chánh niệm -để nhớ thực hành.

Tất cả chúng ta đều có thể chọn lựa điều mình muốn tìm hiểu, khám phá thêm, nhưng buồn thay, chúng ta ít khi tò mò về những gì đang xảy ra trong tâm ta. Chỉ có chánh niệm mới giúp ta bắt đầu nhận ra cách ta đối xử với những người quanh ta trong cuộc sống hằng ngày như thế nào –có thể là một cách bình thường, hoặc với lòng sân nộ hay với sự thân thiện. Đó là một sự thực tập không ngừng nghỉ, luôn hiện diện để tạo ra những ứng xử thân thiện, cởi mở với tha nhân, nhưng cần thiết phải làm thế. Ngay cả như khi ta không thể chịu đựng nổi ai đó, chúng ta cũng không có lý do chính đáng để biện minh cho tình cảm của mình. Điều quan trọng là đến một lúc nào đó ta phải hiểu rõ ràng, thấu suốt rằng nếu ta tiếp tục với quan điểm đó, thì ta sẽ không thể nào chuyển hoá được gì. Lòng sân hận hiện hữu, nhưng ta không có lời biện minh cho nó. Đó là một yếu điểm của bản tính con người mà ta bắt buộc phải chấp nhận, mà ta không thể thiếu, nhưng ta có thể chuyển hoá nó thành ra sức mạnh của ta, đó là tình thương yêu.

Vô Tham

Phần lớn những người có tánh tham thì không dễ khuyên họ tu tập như là những người hay sân vì họ thường cảm thấy hạnh phúc hơn. Tham không khiến cho cuộc sống nội tâm của ta bị xáo trộn như là với sân. Đó chỉ là một cảm giác khó chịu: thí dụ như khi chúng ta không có được những gì mà chúng ta muốn - dầu rằng nếu điều đó xảy ra quá thường- tham có thể trở thành sân hận đối với hoàn cảnh hay người mà đã không đem lại cho chúng ta sự thoả mãn. Trừ điều đó ra phần lớn những người có tâm tham thường có một sự dễ dàng hơn vì họ có thể đạt được một mức độ thoả mãn nào đó một cách dễ dàng vì lúc nào họ cũng hướng đến việc hưởng các lạc thú ngay lập tức. Kết quả có thể là chánh niệm về sự đau khổ ở một mức độ thấp hơn, và do đó một mức độ thấp hơn trong việc tham gia vào sự tu tập hơn là những người hay sân. Đồng thời một người có tánh tham thường cảm thấy sự thực tập của họ được nhiều kết quả hơn. Vì thế chúng ta có thể kết luận rằng về phương diện này cả hai loại người tham và sân đều có những thuận lợi và bất thuận lợi riêng.

Để thoát được khỏi tham là một lý tưởng sâu sắc. Căn bản thì tham là một hình thức của ngã chấp: chúng ta chỉ chú tâm đến những gì mà chúng ta tham cầu cho bản thân và xếp đặt sao cho cuộc đời ta được dễ chịu, thoải mái, trong lúc chúng ta bỏ qua, không để ý đến nhu cầu của người khác, ngay cả khi chúng ta ở trong hoàn cảnh có thể giúp đỡ họ. Ở một bình diện sâu hơn là sự có mặt của cái mà trong thuật ngữ Phật giáo gọi là "ước muốn được hiện hữu", là nguyên nhân sẽ tiếp tục mang chúng ta trở lại thế giới này qua sự tái sinh. Sự thôi thúc mãnh liệt nhất trong tất cả mọi thôi thúc –muốn được sống- là một tướng của tham, che giấu sự sợ hãi cái chết. Sợ mất sự hiện hữu trong hình tướng hiện tại của chúng ta. Chúng ta có thể có vài khái niệm về những gì sẽ đến sau đó, nhưng cái thân mà qua đó chúng ta đã tự đồng hóa mình sẽ hủy hoại. Ứơc muốn được hiện hữu là một động lực sâu xa đứng phía sau của sân hận cũng như những tham cầu khác.

Dĩ nhiên lòng tham cầu không chỉ là sự muốn có mặt ở đây. Chúng ta còn muốn một cái gì hơn là cái cơ thể vật lý này, chúng ta muốn được là ai đó, muốn được công nhận, được thương yêu, và hỗ trợ bởi những người quen biết, thân thuộc –và chúng ta muốn được đẹp đẽ, thông minh, thành đạt, giàu sang hay danh tiếng. Nhưng bất cứ gì mà ta muốn có, tựu trung lại cũng là -muốn được hiện hữu: tất cả cũng đều bắt nguồn từ ước muốn đó. Do chưa được giác ngộ, tất cả chúng sanh đều có sự thôi thúc này, và nó càng phát triển mãnh liệt, ta càng kiên quyết thỏa mãn nó.

Chúng ta có thể cố gắng để tạo cho mình một cảm giác về giá trị tự thân: phải sở hữu những gì đáng giá. Chúng ta có thể cố gắng đạt được một cảm giác về giá trị của mình, và tạo ra chúng bằng các công việc hay nghề nghiệp của mình. Dầu có thể chúng ta cũng biết rằng tất cả những điều đó điều khó thể thực hiện, ta vẫn hành động ngược lại, vì chúng thực sự khiến ta có cảm giác có mặt, hiện diện, và tạo cho chúng ta cảm giác về sự hiện hữu của bản thân qua cảm giác tạm bợ rằng chúng ta xứng đáng là cái gì đó.

Ý muốn được hiện hữu mang nhiều bức xúc trong đó. Tất cả chúng ta đều biết thật khó để tự ngồi xuống, tĩnh lặng và không làm gì hết -chỉ có mặt mà không suy nghĩ, không hành động, không đọc hay viết, không coi truyền hình, nghe radio hay điện thoại – và đó là vì không có ai ở đó để xác nhận rằng chúng ta là một ai đó. Đó là lý do thực sự của sự bức xúc, áp lực ta phải làm điều gì đó -bất cứ là gì. Đồng thời chúng ta cũng luôn tìm ra những lý do hoàn toàn chánh đáng để làm những gì đó: ta sẽ không bao giờ thấy sự chấm dứt của trách nhiệm và công việc, mỗi ngày lại mang đến cho ta những công việc mới để làm, vì thế không bao giờ ta có thể hoàn thành tất cả.

Do đó một cách tự nhiên và đáng tiếc là ước muốn được hiện hữu cũng ảnh hưởng đến việc hành thiền của ta. Các tư tưởng phát sinh để xác nhận rằng ta có mặt ở đây. Ngay giây phút mà sự suy nghĩ dừng lại, thì sự bức xúc, hay ngay cả nỗi sợ hãi, cũng phát khởi -‘Tôi sẽ ở đâu nếu tôi không suy tư?’- và rồi ngay lập tức những luồng tư tưởng mới lại thành hình. Bất cứ ai mới tọa thiền đều biết rằng rất khó để đạt được trạng thái an tĩnh là nơi khi không có gì xảy ra và cũng không cần phải tự xác nhận mình, vì tất cả những ước muốn của chúng ta đều được dựa trên những ước muốn được xác nhận, được bao gồm trong một cái gì đó.

Phương cách để phát triển vô tham là kiểm soát tư tưởng của chúng ta để xem coi chúng có quá tập trung vào bản thân không, hay chúng cũng bao gồm người khác, dầu gần hay xa ta. Vô tham cũng có thể phát triển đến độ ta có thể chấp nhận cái nhìn của người khác, bên cạnh cái nhìn của ‘tôi’.

Vô tham phát sinh cùng lúc với tâm rộng lượng, và niềm vui được chia sẻ. Thực ra tâm rộng lượng có thể được huân tập, và một khi ta đã thực tập được nó, ta luôn vui mừng hạnh phúc được có cơ hội để chia sẻ mà không có ý nghĩ muốn được nhận trả lại điều gì. Một khi sự chia sẻ đã trở thành một bản năng tự nhiên thứ hai, thì những rào cản giữa ‘tôi’ và ‘anh/chị’ sẽ biến mất, hay ít nhất cũng giảm bớt. Vì suy cho cùng, nếu ta có thể mang lại hạnh phúc cho ai đó, là chúng ta đã mang niềm vui đến cho thế gian, và chính bản thân chúng ta cũng đầy an vui như thế. Có một cách suy nghĩ rất phổ biến nhưng hoàn toàn sai lầm là chúng ta chỉ có niềm vui từ những gì mang đến cho ta niềm vui. Thế giới sẽ khá buồn thảm nếu sự thật là như thế. Câu hỏi chúng ta cần đặt ra cho bản thân là: ‘Thật sự điều gì mang lại niềm vui cho tôi và tôi có thể san sẻ bao nhiêu niềm vui đó cho người khác?’ Niềm hoan hỷ thực sự đó là cách ta nhân rộng thêm niềm vui trên thế giới này.

Dầu cho đó là người hàng xóm hay một người ở thật xa xôi, nếu họ có được hạnh phúc, niềm vui thì ta cũng sẽ được những ảnh hưởng tích cực. Vì ta thở cùng một bầu không khí, tất cả chúng ta đều tham gia vào lương tâm toàn cầu, trong đó, niềm vui, niềm hạnh phúc, tánh tham, không tham, sân hận và thương yêu đều có những dấu ấn riêng của chúng. Vì thế ta càng có khả năng khơi nguồn được những tình cảm tích cực nơi bản thân và san sẻ điều đó, thì thế giới càng trở nên tốt đẹp hơn.

Định

Lãnh vực thứ tư của những điều dạy căn bản là khinh an, thiền định. Tâm định (samma Samadhi, trong tiếng Pali) là kết quả viên mãn của công phu hành thiền rốt ráo, đòi hỏi sự nhất tâm, trú tâm vào chỉ một đối tượng. Tâm bình thường trong cuộc sống hằng ngày của ta luôn nhảy từ ý này sang ý nọ, và tiếc thay, nó cũng không khác khi ta bắt đầu hành thiền, vì đã quen suy nghĩ, tính toán như thế qua bao nhiêu năm tháng, tâm ta không thể ngay lập tức tách khỏi thói quen đó. Nhưng nếu ta thường xuyên tạo ra các cơ hội để nó có thể lắng đọng xuống, tâm sẽ dần dần được tĩnh lặng. Tìm cho ra được điểm dừng của tâm, và trú tâm vào đó là một chứng nghiệm tuyệt vời. Ai đã từng kinh qua đều biết nó an lạc đến thế nào. Đối với người chưa từng hành thiền, điều này nghe có vẻ quá khó, nhưng tất cả mọi người đều có khả năng đó. Giáo lý của Đức Phật không phải dành cho các vị thầy tâm linh thông thái mà là cho những người bình thường, cho chúng ta. Chúng ta cũng có thể học hành thiền.

Tuy nhiên, chúng ta cần phải thực hành mỗi ngày để đạt được kết quả. Thân ta chỉ dễ uốn nắn, mềm dẻo với sự luyện tập thường xuyên, và tâm ta cũng như thế. Nói chung, chúng ta thường hiểu việc rèn luyện tâm như là một sự tập trung cao độ. Như thế rất dễ mệt, bất cứ ai đã từng làm những công việc đòi hỏi sự suy nghĩ nhiều đều đồng ý như thế. Nhưng suy tư là một tâm hành khó thể đưa ta đến mức độ sâu xa nhất của tâm; chúng ta không thể chứng nghiệm được bản thể của sự vật chỉ bằng nghĩ suy. Điều đó chỉ có thể đạt được qua công phu hành thiền – nói là ‘qua cánh cửa của thiền’ vì sự chứng nghiệm trong thiền không phải là mục đích của việc tu hành theo Phật giáo, mà chỉ là một bước quan trọng trên con đường đạo, vì chúng ta không thể nghĩ về sự Tuyệt Đối –ta chỉ có thể chứng nghiệm nó. Dầu ta có đạt được sự chứng nghiệm hay chỉ tìm được sự an tĩnh sâu lắng, trong lúc hành thiền, ta vẫn có thể hiểu rằng niềm hạnh phúc mà ta từng kiếm tìm trong cuộc sống, thực ra nằm ở ngay trong ta. Từ những kinh nghiệm tự thân, ta biết rằng ta không thể tìm được hạnh phúc qua người khác, vì họ cũng đang đi tìm hạnh phúc cho chính họ. Chỉ có qua con đường hành thiền, chúng ta mới có thể tiến đến sự chứng nghiệm được hạnh phúc, tự tại, niềm vui và sự tuyệt đối nơi chính bản thân, nơi nội tâm ta.

Tâm định tĩnh bắt đầu bằng cách hướng đến một đối tượng thiền quán, và hơi thở là đối tượng đặc biệt thích hợp cho mục đích này, vì nó hoàn toàn trung tính: mọi người đều cần đến nó để sinh tồn, và nó có những chuyển động không dừng nghỉ để tâm có thể trụ vào. Chúng ta cũng có thể thêm vào đó một tên gọi – thí dụ, ‘an bình’- để tâm có việc gì đó mà làm. Vì vậy, ta tự nhủ thầm ‘an bình’ khi thở vào, và ‘an bình’ khi thở ra. Sau những công phu thực hành liên tục, tâm có thể trụ nơi hơi thở, có thể không phải là hằng giờ không dừng nghỉ, nhưng đủ lâu để buông bỏ quá trình tư duy, và bước vào những trạng thái sâu lắng hơn. Rồi ta sẽ bước qua ngưỡng cửa để đặt chân vào những ngõ ngách sâu lắng của tâm.

Điều quan trọng cần nhớ lúc bắt đầu của mỗi buổi hành thiền là ý thức về lãnh vực thứ tư của chánh niệm -đối tượng của các suy nghĩ của ta- để đặt tên chúng một cách có ý thức, phù hợp. Lúc đó ta sẽ nhận thức được rằng phần lớn những suy nghĩ của ta xoay quanh những chuyện của quá khứ hay tương lai, và ta có khuynh hướng không sống trong phút giây hiện tại, ngay bây giờ, mà luôn suy tư về những gì đã qua hay mơ mộng đến những gì có thể xảy ra. Ta trở nên ý thức rằng những suy nghĩ như thế không phải là cuộc sống thực tế, chúng chỉ là sự bám víu vào quá khứ hay mong đợi ở tương lai. Ta ý thức được rằng hoàn toàn không thể tiên đoán tương lai hay thay đổi quá khứ, do đó tốt nhất là hãy sống trong giây phút hiện tại. Chúng ta chỉ có thể sống ngay giây phút này đây.

Khi thiền quán, ta chỉ có thể ý thức được hơi thở hiện tại; không thể trụ vào hơi thở trước đó hay hơi thở tiếp theo. Khi bắt đầu hướng tâm chánh niệm vào hiện tại bằng cách đó, ta sẽ ý thức được ý nghĩa thực sự của chánh niệm. Bất cứ điều gì sẽ xảy ra trong tương lai hay đã xảy ra trong quá khứ, không có ý nghĩa gì. Nếu chúng ta nhận thức đủ sâu xa rằng ta thực sự chỉ sống ngay trong giây phút này, ta sẽ cố gắng để tĩnh thức trong từng phút giây của cuộc sống. Khi hành thiền, có nghĩa là ta theo dõi từng hơi thở, nhưng ta cũng phải ý thức đến các vọng tưởng để đặt tên cho chúng.

Như thế là ta đã thực hành hai trong bốn lãnh vực của chánh niệm (tứ niệm xứ): chánh niệm về thân (quá trình theo dõi hơi thở) và chánh niệm về đối tượng của những suy nghĩ của ta (đặt tên các vọng tưởng). Điều này sẽ giúp chúng ta có thể duy trì sự thực tập chánh niệm suốt trong ngày, vì sự rèn luyện chánh niệm thường xuyên sẽ đưa ta đến tâm tự tại, định tĩnh, giúp ta có thể nhìn thế giới này trong một ánh sáng hoàn toàn khác. ‘Cái tôi’ không còn được coi là một cá thể riêng biệt hay trung tâm của vũ trụ; thay vào đó, một thế giới hoàn toàn mới lạ với những không gian, vẻ đẹp chưa từng thấy sẽ mở ra trước mắt ta.

Trên hết, ta sẽ có thể nhận ra được chân lý tuyệt đối, hoàn toàn trái ngược với chân lý tương đối –thí dụ như là niềm tin rằng mỗi cá nhân ngồi trên chiếu thiền với những suy nghĩ của chỉ riêng mình.

Sự tự tại hay chánh định, thì cũng giống như vô tham và vô sân, là kết quả của tâm chánh niệm. Chúng ta càng phát triển tâm chánh niệm, thì tâm phản quang của ta càng sâu lắng, việc duy trì đời sống tâm linh của ta càng trở nên dễ dàng hơn. Ta không nên nghĩ rằng mình phải đạt được tất cả ngay lập tức, chỉ vì chúng ta đã có ý hướng tu tập. Cũng như mọi thứ trong cuộc đời, ta phải tiếp tục mỗi ngày, từng bước từng bước, dần dần tiến lên. Sau này, khi nhìn lại, ta sẽ thấy cả hai, ngoại hình lẫn nội tâm của ta đều thay đổi. Ngoại hình thì ta đã già hơn, trong khi nội tâm ta có biết bao chuyển hoá, bao tái tạo. Ngôn từ ta sử dụng có thể không thay đổi nhưng một kinh nghiệm mới mẻ về cuộc đời đã phát sinh. Đến lúc này ta phải thấy rõ rằng bốn điều dạy cơ bản về vô tham, vô sân, chánh niệm và chánh định, lúc nào cũng quan trọng, đối với bất cứ tôn giáo nào, và cho bất cứ con đường tâm linh nào.

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03

Chân thành cám ơn chị Diệu Liên đã gửi tặng bản vi tính (B. Anson, 08-2006).


[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 28-08-2006