Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

VU Times font

 

THERAVĀDA
TẠNG KINH - TIỂU BỘ

 THÁNH NHÂN KÝ SỰ
APADĀNAPĀḶI

KÝ SỰ VỀ TRƯỞNG LÃO NI
THERĪ APADĀNA PĀḶI

 Lời tiếng Việt: Tỳ khưu Indacanda
(Trương đình Dũng)

Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)


III. KUṆḌALAKESIVAGGO

III. PHẨM KUṆḌALAKESĪ:

21. Kuṇḍalakesāpadānaṃ
21. Ký Sự về Kuṇḍalakesā:

 

639. Padamuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.

Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.

 

640. Tadāhaṃ haṃsavatiyaṃ jātā seṭṭhikule ahuṃ,
nānāratanapajjote mahāsukhasamappite.

Khi ấy, tôi đã được sanh ra tại Haṃsavatī, trong gia đình triệu phú được rạng rỡ bởi vô số loại châu báu, được đầy đủ với những lạc thú lớn lao.

 

641. Upetvā taṃ mahāvīraṃ assosiṃ dhammadesanaṃ,
tato jātappasādā ’haṃ upesiṃ saraṇaṃ jinaṃ.

Tôi đã đi đến đấng Đại Hùng ấy và đã lắng nghe lời giảng Pháp. Sau đó, có niềm tịnh tín sanh khởi, tôi đã đi đến nương tựa vào đấng Chiến Thắng.

 

642. Tadā mahākāruṇiko padumuttaranāmako,
khippābhiññānamaggatte ṭhapesi bhikkhuniṃ subhaṃ.

Khi ấy, đấng Đại Bi tên Padumuttara đã thiết lập tỳ khưu ni Subhā vào vị thế tối thắng trong số các vị ni có thắng trí nhạy bén.

 

643. Taṃ sutvā muditā hutvā dānaṃ datvā mahesino,
nipajja sirasā pāde taṃ ṭhānaṃ abhipatthayiṃ.

Sau khi nghe điều ấy, tôi đã trở nên hoan hỷ và đã cúng dường vật thí đến bậc Đại Ẩn Sĩ, rồi đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đã phát nguyện vị thế ấy.

 

644. Anumodi mahāvīro bhadde yaṃ te ’bhipatthitaṃ,
samijjhissati taṃ sabbaṃ sukhinī hohi nibbutā.

Đấng Đại Hùng đã nói lời tùy hỷ rằng: “Này cô gái hiền thục, điều nào đã được con ước nguyện toàn bộ điều ấy sẽ được thành tựu. Hãy được an lạc, hãy được Niết Bàn.

 

645. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.

Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

 

646. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
bhaddā kuṇḍakesāti hessasi satthusāvikā.

(Người n này) sẽ là Bhaddā Kuṇḍakesā, nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người tha t Giáo Pháp ca v (Pht) y, là chánh thng, được to ra t Giáo Pháp.”

 

647. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.

Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

648. Tato cutā yāmamagā tato ’haṃ tusitaṃ gatā,
tato ca nimmāṇaratiṃ vasavattipuraṃ tato.

Từ nơi ấy chết đi, tôi đã đi đến cõi trời Dạ Ma, từ đó đã đi đến cõi trời Đẩu Suất, và từ đó đến cõi Hóa Lạc Thiên, rồi từ đó đến cõi Tha Hóa Tự Tại.

 

649. Yattha yatthūpapajjāmi tassa kammassa vāhasā,
tattha tattheva rājūnaṃ mahesittamakārayiṃ.

Do tác động của nghiệp ấy, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị vua ở chính tại các nơi ấy.

 

650. Tato cutā manussesu rājūnaṃ vasavattinaṃ,
maṇḍalīnañca rājūnaṃ mahesittamakārayiṃ.

Từ nơi ấy chết đi, ở giữa loài người tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị vua có quyền lực và của các vị vua có lãnh thổ.

 

651. Sampattiṃ anubhotvāna devesu mānusesu ca,
sabbattha sukhitā hutvā nekakappesu saṃsariṃ.

Tôi đã thọ hưởng sự thành công ở giữa chư thiên và nhân loại, tôi đã được an vui ở trong mọi nơi, tôi đã luân hồi vô số (đại) kiếp.

 

652. Imasmiṃ bhaddake kappe brahmabandhu mahāyaso,
kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo.

Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

 

653. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
kāsirājā kikī nāma bārāṇasi puruttame.

Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.

 

654. Tassa dhītā catutth’ āsiṃ bhikkhudāsīti vissutā,
dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ.

Tôi đã là người con gái thứ tư của vị (vua) ấy được nổi danh là “Bhikkhudāsī.” Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.

 

655. Anujāni na no tāto agāreva tadā mayaṃ,
vīsaṃ vassasahassāni vicarimha atanditā.

Cha đã không cho phép chúng tôi. Khi ấy, dầu chỉ là người tại gia chúng tôi đã đi đây đó trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi.

 

656. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
buddhupaṭṭhānaniratā muditā satta dhītaro.

Là những người con gái của đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong việc hộ độ đức Phật.

 

657. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī bhikkhudāsikā,
dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā.

Samaṇī, Samaṇaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.

 

658. Khemā uppalavaṇṇā ca paṭācārā ahaṃ tathā,
kisāgotamī dhammadinnā visākhā hoti sattamī.

Khemā, Uppalavaṇṇā, Paṭācārā, thêm vào tôi, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).

 

659. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.

Do các nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

660. Pacchime ca bhave dāni giribbajapuruttame,
jātā seṭṭhikule phīte yadā ’haṃ yobbane ṭhitā.

Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đã được sanh ra tại kinh thành Giribbaja, trong gia đình triệu phú thịnh vượng. Rồi đến lúc tôi đã ở vào lứa tuổi thanh xuân.

 

661. Coraṃ vadhatthaṃ nīyantaṃ disvā rattā tahiṃ ahaṃ,
pitā me taṃ sahassena mocayitvā vadhā tato.

Sau khi nhìn thấy kẻ trộm đang bị dẫn đi để xử tử, tôi đã bị luyến ái với gã. Do đó, cha của tôi đã giải cứu gã ấy khỏi cái chết bằng ngàn đồng tiền.

 

662. Adāsi tassa maṃ tāto viditvāna manaṃ mama,
tassāhamāsiṃ vissatthā atīva dayitā hitā.

Sau khi biết được tâm ý của tôi, cha đã ban gã ấy cho tôi. Tôi đã trở nên thân thiết, vô cùng yêu thương, gắn bó đối với gã ấy.

 

663. So me bhūsanalobhena khalitajjhāsayo diso,
corappapātaṃ netvāna pabbataṃ cetayī vadhaṃ.

Vì lòng tham đối với các đồ trang sức của tôi, gã nghịch thù ấy có ý định gây tội đã đưa (tôi) đến ngọn núi có vực thẳm Kẻ Trộm và đã nghĩ đến việc giết hại.

 

664. Tadā ’haṃ paṇamitvāna bhattukaṃ sukatañjalī,
rakkhantī attano pāṇaṃ idaṃ vacanamabraviṃ:

Khi ấy, trong lúc bảo vệ mạng sống của mình, tôi đã cúi lạy, nghiêm chỉnh chắp tay lại với người chồng, và đã nói lời nói này:

 

665. “Idaṃ suvaṇṇaṃ keyūraṃ muttā veḷuriyā bahū,
sabbaṃ harassu bhaddante mañca dāsīti sāvaya.”

Thưa tướng công, vàng vòng ngọc trai ngọc bích này có nhiều, xin chàng hãy tự mang đi tất cả. Và hãy thông báo rằng thiếp là ‘Nô tỳ.’”

 

666. Oropayassu kalyāṇi mā bāḷhaṃ paridevasi,
na cāhaṃ abhijānāmi ahantvā dhanamābhataṃ.”

Này người đẹp, nàng phải chết. Chớ than vãn nhiều quá. Và ta biết chắc rằng không giết thì của cải không mang đi được.”

 

667. “Yato sarāmi attānaṃ yato pattāsmi viññutaṃ,
na cāhaṃ abhijānāmi aññaṃ piyataraṃ tayā.

Kể từ khi thiếp ghi nhớ được bản thân, kể từ khi thiếp đạt được sự hiểu biết, và thiếp biết chắc rằng không ai khác được yêu thương hơn là chàng.

 

668. Ehi taṃ upagūhissaṃ kassañca taṃ padakkhiṇaṃ,
na ca dāni puno atthi mama tuyhañca saṅgamo.

Xin chàng hãy đến, thiếp sẽ ôm lấy chàng và sẽ nhiễu quanh chàng. Và giờ đây không còn có sự gần gũi nào giữa thiếp và chàng nữa.”

 

669. Na hi sabbesu ṭhānesu puriso hoti paṇḍito,
itthīpi paṇḍitā hoti tattha tattha vicakkhaṇā.

Không hẳn trong mọi trường hợp người nam là khôn ngoan. Người nữ có sự cẩn thật nhiều bề cũng là khôn ngoan.

 

670. Na hi sabbesu ṭhānesu puriso hoti paṇḍito,
itthīpi paṇḍitā hoti lahuṃ atthavicintakā.

Không hẳn trong mọi trường hợp người nam là khôn ngoan. Người nữ cân nhắc điều lợi ích một cách mau chóng cũng là khôn ngoan.

 

671. Lahuñca vata khippañca nikiṭṭhe samacetayiṃ,
migamuṇṇā yathā evaṃ tadā ’haṃ sattukaṃ vadhiṃ.

Quả nhiên, một cách nhẹ nhàng và mau chóng tôi đã suy nghĩ mưu kế. Giống như bộ lông (giết chết) con thú, khi ấy tôi đã giết chết gã Sattuka như thế.

 

672. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ na khippamanubujjhati,
so haññate mandamati corova girigabbhare.

Và người nào không mau chóng nhận ra điều lợi ích đã bị vuột mất, người có trí kém cỏi ấy sẽ bị giết như là kẻ trộm ở hẻm núi.

 

673. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ khippameva nibodhati,
muccate sattusambādhā tadā ’haṃ sattukā yathā.

Và người nào thật mau chóng nhận ra điều lợi ích đã bị vuột mất, (người ấy) thoát khỏi sự quấy rối của kẻ thù giống như tôi và Sattuka vào khi ấy vậy.

 

674. Tadā taṃ pātayitvāna giriduggamhi sattukaṃ,
santikaṃ setavatthānaṃ upetvā pabbajiṃ ahaṃ.

Khi ấy, tôi đã quăng gã Sattuka ấy vào hóc núi, rồi đã đi đến gặp những người (ngoại đạo) mặc vải trắng, và đã xuất gia.

 

675. Saṇḍāsena ca kese me luñcitvā sabbaso tadā,
pabbājetvā sasamayaṃ ācikkhiṃsu nirantaraṃ.

Và khi ấy, sau khi đã nhổ lên toàn bộ những sợi tóc của tôi bằng nhíp,[1] họ đã cho tôi xuất gia và đã chỉ dạy giáo lý không có gián đoạn.

 

676. Tato taṃ uggahetvāna nisīditvāna ekikā,
samayaṃ taṃ vicintesiṃ suvāno mānusaṃ karaṃ.

677. Chinnaṃ gayha samīpe me pātayitvā apakkami,
disvā nimittamalabhiṃ hatthaṃ taṃ puḷavākulaṃ.

Tôi đã học xong (giáo lý) ấy từ họ. Tôi đã ngồi xuống mỗi một mình và đã suy xét về (giáo lý) ấy. Có con chó tha bàn tay của con người bị đứt lìa và đã nhả ở cạnh tôi rồi đã bỏ chạy. Sau khi nhìn thấy dấu hiệu, tôi đã nhặt lấy bàn tay có đầy dòi bọ ấy.

 

678. Tato vuṭṭhāya saṃviggā apucchiṃ sahadhammike,
te avocuṃ: “Vijānanti tamatthaṃ sakyabhikkhavo.”

Sau khi từ chỗ ấy đứng dậy, bị chấn động tôi đã hỏi những người đồng đạo. Họ đã nói rằng: “Những vị tỳ khưu dòng Sakya biết rõ ý nghĩa ấy.”

 

679. Sāhaṃ tamatthaṃ pucchissaṃ upetvā buddhasāvake,
te mamādāya gacchiṃsu buddhaseṭṭhassa santikaṃ.

(Nghĩ rằng) “Ta sẽ hỏi ý nghĩa ấy,” tôi đây đã đi đến các vị Thinh Văn của đức Phật. Sau khi đón nhận tôi, các vị ấy đã đi đến bên đức Phật Tối Thượng.

 

680. So me dhammamadesesi khandhāyatanadhātuyo,
asubhāniccā dukkhāti anattā’ti ca nāyako.

Và đấng Lãnh Đạo ấy đã thuyết Pháp cho tôi về: “Uẩn, xứ, giới, đề mục bất mỹ, vô thường, khổ não, vô ngã.”

 

681. Tassa dhammaṃ suṇitvā ’haṃ dhammacakkhuṃ visodhayiṃ,
tato viññātasaddhammā pabbajjaṃ upasampadaṃ.

682. Āyāciṃ so tadā āha “ehi bhadde”ti nāyako,
tadā ’haṃ upasampannā parittaṃ toyamaddasaṃ.

Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của vị ấy, tôi đã làm cho Pháp nhãn được thanh tịnh. Sau đó, được hiểu rõ Chánh Pháp, tôi đã yêu cầu sự xuất gia và sự tu lên bậc trên. Khi ấy, đấng Lãnh Đạo ấy đã nói rằng: “Này cô gái hiền thục, hãy đến.” Khi ấy, được tu lên bậc trên, tôi đã nhìn thấy một ít nước.

 

683. Pādapakkhālanenāhaṃ ñatvā sa-udayaṃ vayaṃ,
tathā sabbepi saṅkhārā iti saṃcintayiṃ tadā.

Với sự rửa sạch bàn chân, tôi đã biết được là có sự tiêu hoại với nước. Khi ấy, tôi đã tự suy xét rằng: “Tất cả các hành cũng là tương tợ như thế.”

 

684. Tato cittaṃ vimucci me anupādāya sabbaso,
khippābhiññānamaggaṃ maṃ tadā paññāpayī jino.

Sau đó, tâm tôi đã được giải thoát trọn vẹn không còn chấp thủ. Khi ấy, đấng Chiến Thắng đã tuyên bố tôi là đứng đầu trong số các vị ni có thắng trí nhạy bén.

 

685. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
paricittāni jānāmi satthusāsanakārikā.

Là người thực hành theo lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.

 

686. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu visodhitaṃ,
khepetvā āsave sabbe visuddh’ āsiṃ sunimmalā.

Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi đã quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi đã được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.

 

687. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa sāsanaṃ,
ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā.

Bậc Đạo Sư đã được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.

 

688. Yass’ atthāya pabbajitā agārasmānagāriyaṃ,
so me attho anuppatto sabbasaṃyojanakkhayo.

Vì mục đích nào tôi đã rời khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.

 

689. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāṇe tatheva ca,
ñāṇaṃ me vipulaṃ suddhaṃ buddhaseṭṭhassa sāsane.

Trí tuệ của tôi về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là bao la, trong sạch ở trong Giáo Pháp của đức Phật tối thượng.

 

690. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

 

691. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

692. Paṭisambhidā catasso ca vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Bhaddā Kuṇḍalakesā bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.

Tỳ khưu ni Bhaddā Kuṇḍalakesā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kuṇḍalakesātheriyāpadānaṃ paṭhamaṃ.

Ký sự về trưởng lão ni Bhaddā Kuṇḍalakesā là phần thứ nhất.

--ooOoo--

22. Kisāgotamī apādānaṃ

22. Ký Sự về Kisāgotamī:

 

693. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.

Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.

 

694. Tadā ’haṃ haṃsavatiyaṃ jātā aññatare kule,
upetvā taṃ naravaraṃ saraṇaṃ samupāgamiṃ.

Khi ấy, tôi đã được sanh ra ở một gia đình nọ trong (thành) Haṃsavatī. Tôi đã đi đến và đã nương nhờ vào bậc Quý Nhân ấy.

 

695. Dhammañca tassa assosiṃ catusaccūpasaṃhitaṃ,
madhuraṃ paramassādaṃ vaṭṭasantisukhāvahaṃ.

Và tôi đã lắng nghe Giáo Pháp ngọt ngào của vị ấy, bao gồm bốn Sự Thật, có phẩm vị tối thắng, đưa đến sự an lạc và tịnh lặng của vòng luân hồi.

 

696. Tadā ca bhikkhuniṃ vīro lūkhacīvaradhāriniṃ,
ṭhapento etadaggamhi vaṇṇayī purisuttamo.

Và khi ấy, trong khi thiết lập vị tỳ khưu ni mặc y thô vào vị thế tối thắng, bậc Anh Hùng, đấng Tối Thượng Nhân đã khen ngợi.

 

697. Janetvānappakaṃ pītiṃ sutvā bhikkhuṇiyā guṇaṃ,
kāraṃ katvāna buddhassa yathāsattī yathābalaṃ.

Sau khi đã làm sanh lên niềm phỉ lạc không nhỏ nhoi, sau khi lắng nghe đức hạnh của vị tỳ khưu ni, tôi đã làm công việc phục vụ đến đức Phật tùy theo khả năng, tùy theo sức lực.

 

698. Nipacca munivīraṃ taṃ taṃ ṭhānamabhipatthayiṃ,
tadānumodi sambuddho ṭhānalābhāya nāyako.

Tôi đã cúi xuống ở bậc Hiền Triết Anh Hùng ấy và đã ước nguyện vị thế ấy. Khi ấy, bậc Toàn Giác, đấng Lãnh Đạo đã nói lời tùy hỷ về sự lợi ích của vị thế (ấy):

 

699. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.

Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

 

700. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
gotamī nāma nāmena hessasi satthusāvikā.”

(Người n này) sẽ trở thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người tha t Giáo Pháp ca v (Pht) y, là chánh thng, được to ra t Giáo Pháp, có tên là Gotamī.

 

701. Taṃ sutvā muditā hutvā yāvajīvaṃ tadā jinaṃ,
mettacittā paricariṃ paccayehi vināyakaṃ.

Nghe được điều ấy, tôi đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đã chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.

 

702. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.

Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

703. Imasmiṃ bhaddake kappe brahmabandhu mahāyaso,
kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo.

Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

 

704. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
kāsirājā kikī nāma bārāṇasipuruttame.

Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.

 

705. Pañcamī tassa dhīt’ āsiṃ dhammā nāmena vissutā,
dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ.

Tôi đã là người con gái thứ năm của vị (vua) ấy được nổi danh với tên là Dhammā. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.

 

706. Anujāni na no tāto agāreva tadā mayaṃ,
vīsaṃ vassasahassāni vicarimha atanditā.

Cha đã không cho phép chúng tôi. Khi ấy, dầu chỉ là người tại gia chúng tôi đã đi đây đó trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi.

 

707. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
buddhupaṭṭhānaniratā muditā satta dhītaro.

Là những người con gái của đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong việc hộ độ đức Phật.

 

708. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī bhikkhudāsikā,
dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā.

Samaṇī, Samaṇaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.

 

709. Khemā uppalavaṇṇā ca paṭācārā ca kuṇḍalā,
ahaṃ ceva dhammadinnā visākhā hoti sattamī.

Khemā, Uppalavaṇṇā, Paṭācārā,  Kuṇḍalā, tôi, luôn cả Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).

 

710. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsamagacchahaṃ.

Do các nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

711. Pacchime ca bhavedāni jātā seṭṭhikule ahaṃ,
duggate adhane naṭṭhe gatā ca sadhanaṃ kulaṃ.

Và trong kiếp cuối cùng hiện nay, tôi đã được sanh ra trong gia đình triệu phú bị lâm cảnh khốn cùng, không tài sản, bị khánh tận, và tôi đã được gả vào gia đình có tài sản.

 

712. Patiṃ ṭhapetvā sesā disanti adhanā iti,
yadā ca sasutā āsiṃ sabbesaṃ dayitā tadā.

Ngoại trừ người chồng, những người còn lại giễu là “Nữ nhân không tài sản.” Và đến khi tôi đã có con trai, khi ấy tôi đã được cảm tình của tất cả.

 

713. Yadā so taruṇo bhadro komalaṅgo sukhedhito,
sapāṇamiva kanto me tadā yamavasaṃ gato.

Vào lúc đứa bé trai hiền hậu ấy, có cơ thể mềm mại, được nuôi dưỡng trong sung sướng, được yêu quý như chính mạng sống của tôi đã đi đến cõi Dạ Ma.

 

714. Sokaṭṭā dīnavadanā assunettā rudammukhā,
mataṃ kuṇapamādāya vilapantī bhamāmahaṃ.

Bị dằn vặt bởi sầu muộn, có vẻ mặt thê lương, mắt đẫm lệ, miệng khóc than, tôi đã bồng ẳm thi thể đã chết, trong lúc than vãn tôi đã đi lang thang.

 

715. Tadā ekena sandiṭṭhā upetvā bhisajuttamaṃ,
avocaṃ “dehi bhesajjaṃ puttasañjīvananti bho.”

Khi ấy, nhận thức một chiều, tôi đã đi đến vị Đệ Nhất Lương Y và đã nói rằng: “Thưa ông, xin ông hãy cho thuổc đem lại sự sống cho con tôi.”

 

716. “Na vijjante matā yasmiṃ gehe siddhatthakaṃ tato,
āharā”ti jino āha vinayopāyakovido.

Đấng Chiến Thắng, bậc rành rẽ về phương thức huấn luyện, đã nói rằng: “Những người chết không được tìm thấy ở tại ngôi nhà nào thì nàng hãy mang lại hạt cải từ nơi (ngôi nhà) ấy.”

 

717. Tadā gamitvā sāvatthiyaṃ na labhiṃ tādisaṃ gharaṃ,
kuto siddhatthakaṃ kasmā tato laddhā satiṃ ahaṃ.

Khi ấy, tôi đã đi ở trong thành Sāvatthī, và đã không đạt được ngôi nhà như thế ấy. Do đó, tôi đã đạt được trí nhớ rằng: “Hạt cải ở đâu, từ nơi đâu?

 

718. Kuṇapaṃ chaḍḍayitvāna upesiṃ lokanāyakaṃ,
dūratova mamaṃ disvā avoca madhurassaro.

Sau khi đã quăng bỏ thây chết, tôi đã đi đến đấng Lãnh Đạo Thế Gian. Sau khi nhìn thấy tôi từ rất xa, vị có âm giọng ngọt ngào đã nói rằng:

 

719. “Yo ca vassasataṃ jīve apassaṃ udayabbayaṃ,
ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo passato udayabbayaṃ.

Và người nào đã sống trăm năm không nhìn thấy sự sanh diệt, cuộc sống một ngày là tốt hơn đối với người đang nhìn thấy sự sanh diệt.[2]

 

720. Na gāmadhammo no nigamassa dhammo
nacāpayaṃ ekakulassa dhammo,
sabbassa lokassa sadevakassa
esova dhammo yadidaṃ aniccatā.”

Không phải là quy luật thuộc về ngôi làng, không phải là quy luật thuộc về phố chợ, quy luật này cũng không phải thuộc về một gia đình, mà thuộc về tất cả thế gian luôn cả chư thiên; quy luật ấy đấy tức là tính chất vô thường.”

 

721. Sāhaṃ sutvānimā gāthā dhammacakkhuṃ visodhayiṃ,
tato viññātasaddhammā pabbajiṃ anagāriyaṃ.

Sau khi lắng nghe lời kệ này, tôi đây đã làm cho Pháp nhãn được thanh tịnh. Sau đó, được hiểu rõ Chánh Pháp, tôi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình.

 

722. Tathā pabbajitā santī yuñjantī jinasāsane,
na cireneva kālena arahattamapāpuṇiṃ.

Đã được xuất gia như thế, có sự thanh tịnh, trong khi gắn bó vào Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, Trong thời gian không bao lâu tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.

 

723. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
paracittāni jānāmi satthusāsanakārikā.

Là người thực hành theo lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.

 

724. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhuṃ visodhitaṃ,
khepetvā āsave sabbe visuddhāsiṃ sunimmalā.

Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi đã quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi đã được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.

 

725. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa sāsanaṃ,
ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā.

Bậc Đạo Sư đã được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.

 

726. Yass’ atthāya pabbajitā agārasmānagāriyaṃ,
so me attho anuppatto sabbasaṃyojanakkhayo.

Vì mục đích nào tôi đã rời khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.

 

727. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāṇe tatheva ca,
ñāṇaṃ me vimalaṃ suddhaṃ buddhaseṭṭhassa vāhasā.

Trí tuệ của tôi về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là trong sạch, không bợn nhơ, nhờ vào sự tác động của đức Phật tối thượng.

 

728. Saṅkārakūṭā āhatvā susānā rathiyāpi ca,
tato saṅghāṭikaṃ katvā lūkhaṃ dhāremi cīvaraṃ.

Sau khi mang về từ đống rác, từ mộ địa, và thậm chí từ đường lộ, từ đó tôi đã thực hiện y hai lớp và đã mặc y thô.

 

729. Jino tasmiṃ guṇe tuṭṭho lūkhacīvaradhāraṇe,
ṭhapesi etadaggamhi parisāsu vināyako.

Hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo, ở giữa các chúng đã thiết lập (tôi) vào vị thế tối thắng trong việc mặc y thô.

 

730. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

 

731. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

732. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Kisāgotamī bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Kisāgotamī đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 

Kisāgotamītheriyāpadānaṃ dutiyaṃ

Ký sự về trưởng lão ni Kisāgotamī là phần thứ nhì.

--ooOoo--

23. Dhammadinnāpadānaṃ

23. Ký Sự về Dhammadinnā:

  

733. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.

Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.

734. Tadā ’haṃ haṃsavatiyaṃ kule aññatare ahuṃ,
parakammakarī āsiṃ nipakā sīlasaṃvutā.

Khi ấy, tôi đã ở trong một gia đình nọ tại thành Haṃsavatī. Tôi đã là người nữ làm thuê khéo léo, gìn giữ tánh hạnh.

 

735. Padumuttarabuddhassa sujāto aggasāvako,
vihārā abhinikkhamma piṇḍapātāya gacchati.

Sujāta, vị Thinh Văn hàng đầu của đức Phật Padumuttara, đã rời khỏi trú xá đi khất thực.

 

736. Ghaṭaṃ gahetvā gacchantī tadā udakahārikā,
taṃ disvā adadiṃ pūvaṃ pasannā sehi pāṇihi.

Là người nữ đội nước, khi ấy trong lúc cầm lấy bầu nước đang đi, tôi đã nhìn thấy vị ấy, được tịnh tín, tôi đã dâng (vị ấy) món bánh ngọt bằng hai bàn tay của mình.

737. Paṭiggahetvā tattheva nisinno paribhuñji so,
tato netvāna taṃ gehaṃ adāsiṃ tassa bhojanaṃ.

Sau khi thọ lãnh, vị ấy đã ngồi xuống ngay tại nơi ấy và đã thọ dụng. Sau đó, tôi đã đưa vị ấy về nhà và đã dâng vật thực đến vị ấy.

 

738. Tato me ayyako tuṭṭho akarī suṇisaṃ sakaṃ,
sassuyā saha gantvāna sambuddhaṃ abhivādayiṃ.

Do đó, người chủ của tôi hoan hỷ đã nhận làm con dâu của mình. Tôi đã cùng với người mẹ chồng đi đến và đã đảnh lễ bậc Toàn Giác.

 

739. Tadā so dhammakathikaṃ bhikkhuniṃ parikittayaṃ,
ṭhapesi etadaggasmiṃ taṃ sutvā muditā ahaṃ.

Khi ấy, Ngài đã tán dương và đã thiết lập vị tỳ khưu ni là vị thuyết giảng Giáo Pháp vào vị thế tối thắng. Sau khi nghe được điều ấy, tôi đã vui mừng.

 

740. Nimantayitvā sugataṃ sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ,
mahādānaṃ daditvāna taṃ ṭhānaṃ abhipatthayiṃ.

Tôi đã thỉnh mời đức Thiện Thệ đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng, rồi đã cúng dường đại thí và đã ước nguyện vị thế ấy.

 

741. Tato maṃ sugato āha ghananinnādasussaro,
“Mamupaṭṭhānanirate sasaṅghaṃ parivesike.

742. Saddhammasavaṇe yutte guṇavaḍḍhitamānase,
bhadde bhavassu muditā lacchase paṇidhīphalaṃ.

Do đó, với giọng có âm điệu đều đều vang vang, đấng Thiện Thệ đã nói với tôi rằng: “Này người thiếu nữ hiền thục, được vui thích trong việc hộ độ Ta cùng với hội chúng, là người dâng vật thực, được gắn bó trong việc lắng nghe Chánh Pháp, với tâm ý được tăng trưởng về đức hạnh, con hãy vui mừng, con sẽ đạt được kết quả của điều nguyện ước.

 

743. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.

Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

 

744. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
dhammadinnāti nāmena hessasi satthusāvikā.”

(Người n này) sẽ trở thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người tha t Giáo Pháp ca v (Pht) y, là chánh thng, được to ra t Giáo Pháp, có tên là Dhammadinnā.”

 

745. Taṃ sutvā muditā hutvā yāvajīvaṃ mahāmuniṃ,
mettacittā paricariṃ paccayehi vināyakaṃ.

Nghe được điều ấy, tôi đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đã chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.

 

746. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.

Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

747. Imasmiṃ bhaddake kappe brahmabandhu mahāyaso,
kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo.

Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

 

748. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
kāsirājā kikī nāma bārāṇasipuruttame.

Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.

 

749. Chaṭṭhā tassāsahaṃ dhītā sudhammā iti vissutā,
dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ.

Tôi đã là người con gái thứ sáu của vị (vua) ấy được nổi danh là Sudhammā. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.

 

750. Nānujānāsi maṃ tāto agāren’ ālayā mayaṃ,
vīsaṃ vassasahassāni vicarimha atanditā.

Cha đã không cho phép chúng tôi. Có sự ấp ủ về việc không gia đình, chúng tôi đã đi đây đó trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi.

 

Bhāṇavāraṃ tatiyaṃ.
Tụng Phẩm thứ ba.

 

751. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
buddhūpaṭṭhānaniratā muditā satta dhītaro.

Là những người con gái của đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong việc hộ độ đức Phật.

 

752. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī bhikkhudāsikā,
dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā.

Samaṇī, Samaṇaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.

 

753. Khemā uppalavaṇṇā ca paṭācārā ca kuṇḍalā,
gotamī ca ahaṃ ceva visākhā hoti sattamī.

Khemā, Uppalavaṇṇā, Paṭācārā, Kuṇḍalā, Gotamī, tôi, và luôn cả Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).  

 

754. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.

Do các nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

755. Pacchime ca bhavedāni giribbajapuruttame,
jātā seṭṭhikule phīte sabbakāmasamiddhake.

Và vào kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đã được sanh ra ở kinh thành Giribbaja, trong gia đình triệu phú, thịnh vượng, có sự dồi dào về tất cả các dục lạc.

 

756. Yadā rūpaguṇopetā paṭhame yobbane ṭhitā,
tadā parakulaṃ gantvā vasiṃ sukhasamappitā.

Vào lúc đạt đến sắc đẹp và đức hạnh, ở vào thời đầu của tuổi thanh xuân, khi ấy tôi đã đi đến gia tộc khác (làm vợ) và đã sống thọ hưởng lạc thú.

 

757. Upetvā lokasaraṇaṃ suṇitvā dhammadesanaṃ,
anāgāmiphalaṃ patto sāmiko me subuddhimā.

Sau khi đi đến đấng Nương Nhờ của thế gian và đã lắng nghe lời thuyết Pháp, chồng của tôi đã đạt đến quả vị Bất Lai, có trí giác ngộ hoàn hảo.

 

758. Tadā taṃ anujānetvā pabbajiṃ anagāriyaṃ,
na cireneva kālena arahattamapāpuṇiṃ.

Khi ấy, tôi đã thuyết phục vị ấy rồi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Trong thời gian không bao lâu, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.

 

759. Tadā upāsako so maṃ upagantvā apucchatha,
gambhīre nipuṇe paññe te sabbe vyākariṃ ahaṃ.

Khi ấy, vị nam cư sĩ ấy đã đi đến tôi và đã hỏi về các tuệ thâm sâu và hoàn hảo. Tôi đã giảng giải về tất cả các điều ấy.[3]

 

760. Jino tasmiṃ guṇe tuṭṭho etadagge ṭhapesi maṃ,
bhikkhuniṃ dhammakathikaṃ nāññaṃ passāmi edisaṃ.

Hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng: “Ta không nhìn thấy vị tỳ khưu ni nào khác là vị thuyết giảng Giáo Pháp như là vị ni này

 

761. Dhammadinnā yathā dhīrā evaṃ dhāretha bhikkhavo,
evāhaṃ paṇḍitā jātā nāyakenānukampitā.

Này các tỳ khưu, Dhammadinnā là vị ni sáng trí như thế nào thì các ngươi hãy ghi nhớ như thế.” Được đấng Lãnh Đạo thương xót, tôi đã trở thành vị ni thông thái như thế.

 

762. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa sāsanaṃ,
ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā.

Bậc Đạo Sư đã được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.

 

763. Yass’ atthāya pabbajitā agārasmānagāriyaṃ,
so me attho anuppatto sabbasaṃyojanakkhayo.

Vì mục đích nào tôi đã rời khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.

 

764. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
paracittāni jānāmi satthu sāsanakārikā.

Là người thực hành theo lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.

 

765. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu visodhitaṃ,
khepetvā āsave sabbe visuddhāmhi sunimmalā.

Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi đã quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.

 

766. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

 

767. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

768. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Dhammadinnā bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Dhammadinnā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 

Dhammadinnātheriyāpadānaṃ tatiyaṃ

Ký sự về trưởng lão ni Dhammadinnā là phần thứ ba.

--ooOoo--

24. Sakulāpadānaṃ

24. Ký Sự về Sakulā:

 

769. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.

Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.

 

770. Hitāya sabbasattānaṃ sukhāya vadataṃ varo,
atthāya purisājañño paṭipanno sadevake.

Vì sự tấn hóa, sự lợi ích, ví sự an lạc của tất cả chúng sanh, đấng Siêu Nhân, bậc cao quý trong số các vị đang thuyết giảng đã sanh ra ở thế gian gồm cả thiên giới.

 

771. Yasaggappatto sirimā vaṇṇakittibhato jino,
pūjito sabbalokassa disā sabbāsu vissuto.

Đấng Chiến Thắng, đã đạt đến danh vọng cao tột, có sự vinh quang, có được sự tán dương ca ngợi, được tôn vinh, được nổi danh ở tất cả các phương của toàn thể thế gian.

 

772. Uttiṇṇavicikiccho so vītivattakathaṃkatho,
sampuṇṇamanasaṅkappo patto sambodhimuttamaṃ.

Ngài đã vượt lên trên sự hoài nghi, đã vượt qua sự lưỡng lự, đã tròn đủ tâm tư, đã đạt đến quả Toàn Giác tối thượng.

 

773. Anuppannassa maggassa uppādetā naruttamo,
anakkhātañca akkhāsi asañjātañca sañjanī.

Đấng Tối Thượng Nhân là người khai mở con đường chưa được khai mở, là vị đã nói về điều chưa được nói đến, và đã nhận thức điều chưa được nhận thức.

 

774. Maggaññū ca maggavidū maggakkhāyī narāsabho,
maggassa kusalo satthā sārathīnaṃ varuttamo.

Đấng Nhân Ngưu là vị biết được Đạo lộ, là vị rành mạch về Đạo lộ, là vị thuyết về Đạo lộ. Được thiện xảo về Đạo lộ, đấng Đạo Sư là cao quý tối thượng trong số các bậc điều ngự (người điều khiển xe).

 

775. Mahākāruṇiko satthā dhammaṃ desesi nāyako,
nimugge kāmapaṅkamhi samuddharati pāṇino.

Đấng Đại Bi, bậc Đạo Sư, vị Lãnh Đạo đã thuyết giảng Giáo Pháp. Ngài kéo lên những chúng sanh (đang) bị đắm chìm trong đầm lầy ái dục.

 

776. Tadā ’haṃ haṃsavatiyaṃ jātā khattiyanandanā,
surūpā sadhanā cāsiṃ dayitā ca sirīmatī.

Khi ấy, tôi đã được sanh ra ở tại Haṃsavatī, là niềm hoan hỷ của dòng Sát-đế-lỵ. Và tôi đã có sắc đẹp tuyệt vời, có tài sản, được yêu quý, và có sự vẻ vang.

 

777. Ānandassa mahārañño dhītā paramasobhanā,
vemātu bhaginī cāpi padumuttaranāmino.

Là người con gái vô cùng xinh đẹp của vị đại vương Ānanda, và cũng là người em gái khác mẹ của vị (Phật) tên Padumuttara.

 

778. Rājakaññāhi sahitā sabbābharaṇabhūsitā,
upagamma mahāvīraṃ assosiṃ dhammadesanaṃ.

Được tháp tùng bởi các người con gái của đức vua, được trang điểm với tất cả các đồ trang sức, tôi đã đi đến đấng Đại Hùng và đã lắng nghe lời thuyết Pháp.

 

779. Tadā hi so lokagaru bhikkhuniṃ dibbacakkhukaṃ,
kittayaṃ parisāmajjhe aggaṭṭhāne ṭhapesi taṃ.

Chính vào khi ấy, bậc Thầy của thế gian ấy ở giữa các chúng đã tán dương vị tỳ khưu ni có thiên nhãn và đã thiết lập vị ni ấy vào vị thế tối thắng.

 

780. Suṇitvā tamahaṃ haṭṭhā dānaṃ datvāna satthuno,
pūjetvāna ca sambuddhaṃ dibbacakkhuṃ apatthayiṃ.

Sau khi nghe điều ấy, được mừng rỡ  tôi đã dâng vật thí đến bậc Đạo Sư. Và sau khi cúng dường đến bậc Toàn Giác, tôi đã ước nguyện về thiên nhãn.

 

781. Tato avoca maṃ satthā “nande lacchasi patthitaṃ,
padīpadhammadānānaṃ phalametaṃ sunicchitaṃ.

Do đó, bậc Đạo Sư đã nói với tôi rằng: “Này người thiếu nữ vui vẻ, con sẽ đạt được điều đã ước nguyện. Điều đã khéo được mong muốn này là quả báu của các việc cúng dường đèn và Giáo Pháp.

 

782. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.

Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

 

783. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
sakulā nāma nāmena hessasi satthusāvikā.”

(Người n này) sẽ trở thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người tha t Giáo Pháp ca v (Pht) y, là chánh thng, được to ra t Giáo Pháp, có tên là Sakulā.

 

784. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.

Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

785. Imamhi bhaddake kappe brahmabandhu mahāyaso,
kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo.

Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

 

786. Paribbājakinī āsiṃ tadā ’haṃ ekacārinī,
bhikkhāya vicaritvāna alabhiṃ telamattakaṃ.

Khi ấy, tôi đã là nữ du sĩ ngoại đạo có hạnh độc hành. Sau khi đi lang thang để khất thực tôi đã nhận được một số lượng dầu thắp.

 

787. Tena dīpaṃ padīpetvā upaṭṭhiṃ sabbasaṃvariṃ,
cetiyaṃ dipadaggassa vippasannena cetasā.

Sau khi thắp sáng ngọn đèn với số (dầu) đó, với tâm ý trong sạch tôi đã phục vụ ngôi bảo tháp của đấng Tối Thượng Nhân trọn cả đêm.

 

788. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.

Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

789. Yattha yatthūpapajjāmi tassa kammassa vāhasā,
pajjalanti mahādīpā tattha tattha gatāya me.

Do tác động của nghiệp ấy, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, ở chính tại các nơi ấy có các ngọn đèn lớn chiếu sáng khi tôi đi đến.

 

790. Tirokuḍḍaṃ tiroselaṃ samatiggayha pabbataṃ,
passām’ ahaṃ yadicchāmi dīpadānassidaṃ phalaṃ.

Nếu tôi muốn, tôi (có thể) nhìn thấy ngọn núi sau khi đã vượt lên xuyên qua bức tường, xuyên qua tảng đá; điều này là quả báu của việc cúng dường đèn.

 

791. Visuddhanayanā homi yasasā ca jalām’ ahaṃ,
saddhāpaññāvatī ceva dīpadānassidaṃ phalaṃ.

Tôi có cặp mắt trong ngần, và tôi chói sáng với danh vọng, lại còn có đức tin và trí tuệ nữa; điều này là quả báu của việc cúng dường đèn.

 

792. Pacchime ca bhavedāni jātā vippakule ahaṃ,
pahūtadhanadhaññamhi mudite rājapūjite.

Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đã được sanh vào gia đình Bà-la-môn có nhiều tài sản và lúa gạo, được hài lòng, được đức vua tôn trọng.

 

793. Ahuṃ sabbaṅgasampannā sabbābharaṇabhūsitā,
purappavese sugataṃ vātapāne ṭhitā ahaṃ.

Được phú cho toàn vẹn cơ thể, được trang điểm với tất cả các đồ trang sức, đứng ở cửa sổ tôi (đã nhìn thấy) đấng Thiện Thệ ở lối đi vào thành. 

 

794. Disvā jalantaṃ yasasā devamānusasakkataṃ,
anubyañjanasampannaṃ lakkhaṇehi vibhūsitaṃ.

Tôi đã nhìn thấy Ngài đang chói sáng với danh vọng, được trọng vọng bởi chư thiên và nhân loại, được hội đủ các tướng phụ, được điểm tô bằng những tướng chính.

 

795. Udaggacittā sumanā pabbajjaṃ samarocayiṃ,
na cireneva kālena arahattamapāpuṇiṃ.

Với tâm phấn chấn, với thiện ý, tôi đã xin xuất gia. Trong thời gian không bao lâu tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.

 

796. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
paracittāni jānāmi satthusāsanakārikā.

Là người thực hành theo lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.

 

797. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu visodhitaṃ,
khepetvā āsave sabbe visuddhāsiṃ sunimmalā.

Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi đã quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi đã được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.

 

798. Pariciṇṇo mahā satthā kataṃ buddhassa sāsanaṃ,
ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā.

Bậc Đạo Sư đã được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.

 

799. Yassatthāya pabbajitā agārasmānagāriyaṃ,
so me attho anuppatto tibbasaṃyojanakkhayo.

Vì mục đích nào tôi đã rời khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.

 

800. Tato mahākāruṇiko etadagge ṭhapesi maṃ,
“Dibbacakkhukīnaṃ aggā sakulā”ti naruttamo.

Do đó, đấng Đại Bi, bậc Tối Thượng Nhân đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng “Sakulā là vị ni đứng đầu trong các vị ni có thiên nhãn.”

 

801. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

 

802. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

803. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Sakulā bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Sakulā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 

Sakulātheriyāpadānaṃ catutthaṃ.

Ký sự về trưởng lão ni Sakulā là phần thứ tư.

--ooOoo--

25. Nandājanapadakalyāṇī apadānaṃ

25. Ký Sự về Nandā - Mỹ Nhân của Xứ Sở:

 

804. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.

Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.

 

805. Ovādako viññāpako kārako sabbapāṇinaṃ,
desanākusalo buddho tāresi janataṃ bahuṃ.

Là vị giáo giới, vị làm cho hiểu rõ, vị hành xử đối với tất cả chúng sanh, là thiện xảo trong việc chỉ dạy, đức Phật đã giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.

 

806. Anukampako kāruṇiko hitesī sabbapāṇinaṃ,
sampatte titthiye sabbe pañcasīle patiṭṭhahi.

Là bậc Thương Tưởng, đấng Bi Mẫn, vị Ẩn Sĩ hữu ích đối với tất cả chúng sanh, Ngài đã an trú vào ngũ giới cho tất cả các ngoại đạo đã đi đến.

 

807. Evaṃ nirākulaṃ āsi suññakaṃ titthiyehi ca,
vicittaṃ arahantehi vasībhūtehi tādihi.

Như thế, được tô điểm với các vị A-la-hán có được năng lực như thế ấy, (thế gian) đã không bị rối loạn và không có các ngoại đạo.

 

808. Ratanānaṭṭhapaññāsaṃ uggato so mahāmuni,
kañcanagghiyasaṅkāso battiṃsavaralakkhaṇo.

Bậc Đại Hiền Triết ấy có ba mươi hai quý tướng, cao năm mươi tám ratana (14.50 m) tợ như cây cột trụ bằng vàng.

 

809. Vassasatasahassāni āyu vijjati tāvade,
tāvatā tiṭṭhamāno so tāresi janataṃ bahuṃ.

Cho đến khi ấy, tuổi thọ được biết là một trăm ngàn năm. Trong khi tồn tại như thế, Ngài đã giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.

 

810. Tadā ’haṃ haṃsavatiyaṃ jātā seṭṭhikule ahuṃ,
nānāratanapajjote mahāsukhasamappite.

Khi ấy, tôi đã được sanh ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình triệu phú được rạng rỡ với vô số loại châu báu, được đầy đủ với những lạc thú lớn lao.

 

811. Upetvā taṃ mahāvīraṃ assosiṃ dhammadesanaṃ,
amataṃ paramassādaṃ paramatthanivedakaṃ.

Tôi đã đi đến đấng Đại Hùng ấy và đã lắng nghe lời thuyết giảng Giáo Pháp Bất Tử, có phẩm vị tối thắng, làm rõ về chân lý tuyệt đối.

 

812. Tadā nimantayitvāna sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ,
datvā tassa mahādānaṃ pasannā sehi pāṇihi.

Khi ấy, được tịnh tín tôi đã thỉnh mời đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng và đã cúng dường đại thí đến vị ấy bằng hai bàn tay của mình.

 

813. Jhāyinīnaṃ bhikkhunīnaṃ aggaṭṭhānaṃ apatthayiṃ,
nipacca sirasā vīraṃ sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ.

Tôi đã quỳ xuống đê đầu đến bậc Anh Hùng đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng, tôi đã ước nguyện vị thế tối thắng trong số các tỳ khưu ni chứng thiền.

 

814. Tadā adantadamako tilokasaraṇo pabhū,
vyākāsi narasaddūlo lacchase taṃ supatthitaṃ.

Khi ấy, bậc Điều Phục những ai chưa được điều phục, đấng Nương Nhờ của ba cõi, vị Chúa Tể, bậc Nhân Báo đã chú nguyện rằng: “Con sẽ đạt được điều đã khéo được ước nguyện ấy.

 

815. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.

Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

 

816. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
nandāti nāma nāmena hessasi satthusāvikā.”

(Người n này) sẽ trở thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người tha t Giáo Pháp ca v (Pht) y, là chánh thng, được to ra t Giáo Pháp, có tên là Nandā.”

 

817. Taṃ sutvā muditā hutvā yāvajīvaṃ tadā jinaṃ,
mettacittā paricariṃ paccayehi vināyakaṃ.

Nghe được điều ấy, tôi đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đã chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.

 

818. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.

Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

819. Tato cutā yāmamagaṃ tato ’haṃ tusitaṃ agaṃ,
tato ca nimmāṇaratiṃ vasavattipuraṃ tato.

Từ nơi ấy chết đi, tôi đã đi đến cõi trời Dạ Ma, từ đó đã đi đến cõi trời Đẩu Suất, và từ đó đến cõi Hóa Lạc Thiên, rồi từ đó đến cõi Tha Hóa Tự Tại.

 

820. Yattha yatthūpapajjāmi tassa kammassa vāhasā,
tattha tattheva rājānaṃ mahesittamakārayiṃ.

Do tác động của nghiệp ấy, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị vua ở chính tại các nơi ấy.

 

821. Tato cutā manussatte rājānaṃ cakkavattīnaṃ,
maṇḍalīnañca rājānaṃ mahesittamakārayiṃ.

Từ nơi ấy chết đi (sanh) vào thân nhân loại, tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị Chuyển Luân Vương và các vị vua cai quản các lãnh thổ.

 

822. Sampattiṃ anubhotvāna devesu manujesu ca,
sabbattha sukhitā hutvā nekakappesu saṃsariṃ.

Tôi đã thọ hưởng sự thành đạt ở giữa chư thiên và loài người, đã được an vui ở tất cả các nơi, và đã luân hồi qua nhiều (đại) kiếp.

 

823. Pacchime bhave sampatte puramhi kapilavhaye,
rañño suddhodanassāhaṃ dhītā āsiṃ aninditā.

Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, tôi đã là người con gái hoàn hảo của đức vua Suddhodana tại thành phố tên là Kapila.

 

824. Siriṃva rūpiniṃ disvā nanditaṃ āsi taṃ kulaṃ,
tena nandāti me nāmaṃ sundaropapadaṃ ahū.

Nhìn thấy (tôi) có nét đẹp vô cùng rạng rỡ, gia đình ấy đã trở nên vui vẻ; vì thế tôi có tên là “Nandā” (vui vẻ). Tôi đã được công nhận là xinh đẹp.

 

825. Yuvatīnañca sabbāsaṃ kalyāṇīti ca vissutā,
tasmimpi nagare ramme ṭhapetvā ca yasodharā.

Và cũng ở trong thành phố đáng yêu ấy, tôi đã được nổi danh là “Mỹ nhân” trong số tất cả các thiếu nữ ngoại trừ Yasodharā.

 

826. Jeṭṭho bhātā tilokaggo pacchimo arahā tathā,
ekākinī gahaṭṭhāhaṃ mātarā paricoditā.

Người anh trai đầu là đấng Cao Cả của tam giới, cũng vậy người út là vị A-la-hán. Mỗi một mình tôi là người tại gia, tôi đã bị mẹ quở trách rằng:

 

827. “Sākiyamhi kule jātā putte buddhānujā tuvaṃ,
nandenapi vinā bhūtā agāre kinnu vacchasi?

Này con, được sanh trong gia tộc dòng Sakya (Thích Ca), con là em gái của đức Phật. Con cũng không còn có Nanda nữa, việc gì con lại ở tại gia?

 

828. Jarāvasānaṃ yobbaññaṃ rūpaṃ asucisammataṃ,
rogantampi ca ārogyaṃ jīvitaṃ maraṇantikaṃ.

Tuổi trẻ có sự già là nơi cư ngụ, xác thân được xem là bất tịnh, vô bệnh cũng có bệnh là điểm cuối cùng, mạng sống có sự chết là nơi chấm dứt.

 

829. Idampi te subhaṃ rūpaṃ sasikantaṃ manoharaṃ,
bhūsanānamalaṅkāraṃ sirisaṅghātasannibhaṃ.

Sắc thân này của con dầu là xinh đẹp, được yêu dấu như là mặt trăng, quyến rũ, có sự trang điểm của những đồ trang sức như là được gắn liền với sự rạng rỡ.

 

830. Piṇḍitaṃ lokasāraṃva nayanānaṃ rasāyanaṃ,
puññānaṃ kittijananaṃ okkākakulanandanaṃ.

(Sắc thân này của con) được gộp chung lại thuần sự tinh túy của thế gian, là sự đem lại chất vị cho những con mắt, là sự sản xuất ra danh thơm của các điều phước thiện, là niềm vui của gia tộc Okkāka.

 

831. Na cireneva kālena jarā samatibhossati,
vihāya gehaṃ tāruññe cara dhammamanindite.

Vào thời gian chẳng bao lâu nữa, sự già sẽ ngự trị. Này cô gái trẻ, hãy từ bỏ gia đình. Này cô gái hoàn hảo, hãy thực hành Giáo Pháp.”

 

832. Sutvā ’haṃ mātuvacanaṃ pabbajiṃ anagāriyaṃ,
dehena na tu cittena rūpayobbanalālitā.

Được vui thích với sắc đẹp và tuổi trẻ, sau khi nghe lời nói của người mẹ, tôi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình bằng thân chứ không phải bằng tâm.

 

833. Mahatā ca payattena jhānajjhenaparaṃ mamaṃ,
kātuṃ ca vadate mātā na cāhaṃ tattha ussukā.

Và với sự cố gắng lớn lao, tôi đã suy tưởng về điều vô cùng trái ngược. Và (việc) người mẹ bảo làm, tôi đã không năng nổ về việc ấy.

 

834. Tato mahākāruṇiko disvā maṃ kāmalālasaṃ,
nibbindanatthaṃ rūpasmiṃ mama cakkhupathe jino.

Do đó, bậc Đại Bi, đấng Chiến Thắng, đã nhìn thấy tôi có lòng khao khát về các dục, và đối với tôi ý nghĩa của sự nhàm chán về xác thân là qua lộ trình của mắt.

 

835. Sakena anubhāvena itthiṃ māpesi sobhaniṃ,
dassanīyaṃ suruciraṃ mamatopi surūpiniṃ.

Bằng năng lực tự thân, Ngài đã làm hiện ra người phụ nữ lộng lẫy, đáng nhìn, rất dễ thương, vô cùng xinh đẹp hơn hẳn luôn cả tôi.

 

836. Tamahaṃ vimhitā disvā ativimhitadehiniṃ,
cintayiṃ saphalaṃ meti nettalābhañca mānusaṃ.

Sau khi nhìn thấy người nữ có thân thể vô cùng kinh ngạc ấy, bị sửng sốt, và tôi đã suy nghĩ về sự lợi ích thuộc về nhân gian đối với con mắt rằng: “Có quả báu đến ta.

 

837. Tamahaṃ ehi subhage yenattho taṃ vadehi me,
kulaṃ te nāmagottañca vada me yadi te piyaṃ.

Này cô em yêu dấu, hãy đến với tôi đây. Có cần gì nàng hãy nói với tôi. Hãy nói với tôi về gia đình, tên, dòng họ của nàng nếu nàng ưng ý.

 

838. Na pañhakālo subhage ucchaṅge maṃ nivesaya,
sīdantīva mamaṅgāni supasuppaya muhuttakaṃ.

Này cô em yêu dấu, không phải là lúc hỏi han. Hãy cho tôi tựa vào lòng. Tay chân của tôi như là chìm xuống. Nàng hãy ru tôi ngủ một chốc.

 

839. Tato sīsaṃ mamaṅke sā katvā sayi sulocanā,
tassā nalāṭe patitā lūtā paramadāruṇā.

Sau đó, nàng có đôi mắt xinh đẹp ấy đã kê đầu vào hông của tôi rồi đã thiếp đi. Có con nhện vô cùng ghê rợn đã rơi xuống ở trán của nàng.

 

840. Saha tassā nipātena piḷakā uppajjatha,
pagghariṃsu pabhinnā ca kuṇapā pubbalohitā.

Cùng với sự rơi xuống của con nhện ấy, mụn nhọt đã nổi lên. Chúng đã rò rỉ, vỡ ra, và toàn thân là mủ và máu.

 

841. Pabhinnaṃ vadanaṃ cāsi kuṇapaṃ pūtigandhikaṃ,
uddhumātaṃ vinilañca vipubbañca sarīrakaṃ.

Và khuôn mặt đã bị nứt nẻ, thi thể có mùi hôi thối. Toàn thân bị trương lên, đổi sang màu tím, và thối rửa.

 

842. Sā pavedhitasabbaṅgī nissasantī muhuṃ muhuṃ,
vedayantī sakaṃ dukkhaṃ karuṇaṃ paridevayī.

Nàng ấy, có toàn thể các bộ phận bị run rẩy, chốc chốc lại bị hụt hơi, trong khi cảm nhận sự khổ đau của mình, đã than vãn một cách thê lương rằng:

 

843. “Dukkhena dukkhitā homi phusayanti ca vedanā,
mahādukkhe nimuggāmhi saraṇaṃ hohi me sakhī.”

Tôi bị khổ sở vì nỗi đau đớn, và các cảm thọ được chạm đến, tôi bị đắm chìm trong nỗi khổ đau lớn lao. Này cô bạn gái, bạn hãy là nơi nương nhờ của tôi.”

 

844. “Kuhiṃ vadanasobhā te kuhiṃ te tuṅganāsikā,
tambabimbavaroṭṭhaṃ te vadanaṃ te kuhiṃ gataṃ.

Vẻ đẹp ở khuôn mặt của cô đâu rồi? Lỗ mũi cao của cô đâu rồi? Làn môi màu đỏ của trái cây bimba tuyệt hảo của cô, khuôn mặt của cô đã đi đâu rồi?

 

845. Kuhiṃ sasinibhaṃ vattaṃ kambugīvā kuhiṃ gatā,
doḷālālā ca te kaṇṇā vevaṇṇaṃ samupāgatā.

Gương mặt tợ như mặt trăng đâu rồi? Chiếc cổ ba ngần đã đi đâu rồi? Và các lỗ tai run rẩy lung linh của cô đã đi đến tình trạng thay đổi rồi.

 

846. Makuḷamburuhākārā kalasāva payodharā,
pabhinnā pūtikuṇapā duggandhittamāgatā.

Bộ ngực có hình dáng đóa hoa sen còn dạng chồi tợ như bầu nước đã trở thành thi thể hôi thối, bị phân rã, có mùi khó chịu.

 

847. Tanumajjhā puthussoṇi sūnā vaṇitakibbisā,
jātā amejjhabharitā aho rūpaṃ asassataṃ.

Eo thon, mông đầy đặn, bị sưng lên, có sự lở lói và độc hại, trở thành nơi chứa đầy vật không trong sạch; ôi xác thân là không vĩnh viễn!

 

848. Sabbaṃ sarīrasañjātaṃ pūtigandhaṃ bhayānakaṃ,
susānamiva bībhacchaṃ ramante yattha bālisā.”

Toàn bộ nguồn gốc của thân thể là có mùi hôi thối, có sự hãi sợ, như là bãi tha ma kinh hoàng, lại là nơi mà những kẻ ngu hứng thú!

 

849. Tadā mahākāruṇiko bhātā me lokanāyako,
disvā saṃviggacittaṃ maṃ imā gāthā abhāsatha.

Khi ấy, sau khi nhìn thấy tôi có tâm bị chấn động, đấng Đại Bi, bậc Lãnh Đạo Thế Gian, người anh trai của tôi, đã nói lên những lời kệ này :

 

850. “Āturaṃ asuciṃ pūtiṃ passa nande samussayaṃ,
asubhāya cittaṃ bhāvehi ekaggaṃ susamāhitaṃ.

Này Nandā, hãy nhìn thân thể bệnh hoạn, bất tịnh, hôi thối. Em hãy tu tập tâm về đề mục bất mỹ (tử thi) trở thành chuyên nhất, khéo được tập trung.

 

851. Yathā idaṃ tathā etaṃ yathā etaṃ tathā idaṃ,
duggandhaṃ pūtikaṃ vāpi bālānaṃ abhinanditaṃ.

Thân này như thế nào thì xác kia như vậy, xác kia như thế nào thì thân này như vậy, có mùi khó chịu hoặc hôi thối lại được hứng thú đối với những kẻ ngu.

 

852. Evametaṃ avekkhantī rattindivamatanditā,
tato satāya paññāya abhinibbijja dakkhasi.”

Trong khi xem xét xác thân này như thế ngày và đêm không mệt mỏi, từ đó với niệm với tuệ sau khi đã nhàm chán thì em sẽ nhìn thấy.”

 

853. Tato ’haṃ atisaṃviggā sutvā gāthā subhāsitā,
tatraṭṭhitā vipassantī arahattamapāpuṇiṃ.

Do đó, sau khi nghe được các lời kệ khéo thuyết, tôi đã bị vô cùng chấn động. Đứng tại chỗ ấy, trong lúc quán sát tôi đã đạt được quả vị A-la-hán.

 

854. Yattha yattha nisinnāhaṃ sadā jhānaparāyanā,
jino tasmiṃ guṇe tuṭṭho etadagge ṭhapesi maṃ.

Ngồi xuống ở bất cứ nơi nào, tôi luôn luôn có mục đích chính là thiền. Hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng.

 

855. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

 

856. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

857. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Nandā bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Nandā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 

Nandātheriyāpadānaṃ pañcamaṃ

Ký sự về trưởng lão ni Nandā là phần thứ năm.

--ooOoo--

26. Soṇāpadānaṃ

26. Ký Sự về Soṇā:

 

858. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.

Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.

 

859. Tadā seṭṭhikule jātā sukhitā pūjitā piyā,
upetvā taṃ munivaraṃ assosiṃ madhuraṃ vacaṃ.

Khi ấy, tôi đã được sanh ra trong gia đình triệu phú, được hạnh phúc, được tôn vinh, yêu quý. Tôi đã đi đến bậc Hiền Triết cao quý ấy và đã lắng nghe lời nói ngọt ngào.

 

860. Āraddhaviriyānaggaṃ vaṇṇesi bhikkhuniṃ jino,
taṃ sutvā muditā hutvā kāraṃ katvāna satthuno.

Đấng Chiến Thắng đã tán dương vị tỳ khưu ni là đứng đầu trong số các vị ni có sự ra sức tinh tấn. Sau khi nghe được điều ấy, trở nên hoan hỷ, tôi đã thể hiện sự thành kính đến bậc Đạo Sư.

 

861. Abhivādiya sambuddhaṃ taṃ ṭhānaṃ patthayiṃ tadā,
anumodi mahāvīro “sijjhataṃ paṇidhī tava.

Khi ấy, tôi đã đảnh lễ bậc Toàn Giác và đã ước nguyện vị thế ấy. Đấng Đại Hùng đã nói lời tùy hỷ rằng: “Ước nguyện của con sẽ được thành tựu.

 

862. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.

Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

 

863. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
soṇāti nāma nāmena hessasi satthusāvikā.”

(Người nữ này) sẽ trở thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Soṇā.

 

864. Taṃ sutvā muditā hutvā yāvajīvaṃ tadā jinaṃ,
mettacittā paricariṃ paccayehi vināyakaṃ.

Nghe được điều ấy, tôi đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đã chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.

 

865. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.

Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

866. Pacchime ca bhavedāni jātā saṭṭhikule ahaṃ,
sāvatthiyaṃ puravare iddhe phīte mahaddhane.

Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đã được sanh vào gia đình triệu phú sung túc, thịnh vượng, có tài sản lớn lao ở trong kinh thành Sāvatthī.

 

867. Yadā ca yobbanappattā gantvā patikulaṃ ahaṃ,
dasaputtāni ajaniṃ surūpāni visesato.

Và khi đã đạt đến tuổi trưởng thành, tôi đã đi đến nhà người chồng và đã sanh ra mười người con trai, hết thảy đều có vóc dáng hoàn hảo.

868. Sukhedhitā ca te sabbe jananettamanoharā,
amittānampi te rucitā mamaṃ pageva te piyā.

Và tất cả bọn chúng đều được nuôi dưỡng trong sung sướng, có sự quyến rũ ánh mắt của mọi người. Ngay cả đối với những kẻ nghịch thù, chúng cũng được ưa thích. Chúng được yêu mến còn hơn cả tôi nữa.

 

869. Tato mayhaṃ akāmāya dasaputtapurakkhato,
pabbajittha sa me bhattā devadevassa sāsane.

Sau đó, với sự không mong muốn của tôi, người chồng ấy của tôi được khích lệ bởi mười người con trai đã xuất gia trong Giáo Pháp của vị Chúa chư Thiên.

 

870. Tadekikā vicintesiṃ jīvitenālamatthu me,
cattāya patiputtehi vuḍḍhāya ca varākiyā.

Khi ấy, còn mỗi một mình tôi đã suy xét rằng: “Đã đủ cho cuộc sống của ta là người bị chồng và những người con trai bỏ rơi, lại già cả, và thảm thương.

 

871. Ahampi tattha gacchissaṃ sampatto yattha me patī,”
evāhaṃ cintayitvāna pabbajiṃ anagāriyaṃ.

Ta cũng sẽ đi đến nơi nào mà người chồng của ta đã đạt đến.” Sau khi suy xét như thế, tôi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình.

 

872. Tato ca maṃ bhikkhuniyo evaṃ bhikkhunupassaye,
vihāya gacchumovādaṃ “tāpehi udakaṃ” iti.

Và sau đó, các vị tỳ khưu ni đã để tôi ở lại tu viện của các tỳ khưu ni như thế rồi đã đi (nghe) giáo giới (bảo rằng): “Bà hãy đun nóng nước.” 

 

873. Tadā udakamāhitvā okiritvāna kumbhiyā,
cullyaṃ ṭhapetvā āsīnā tato cittaṃ samādahiṃ.

Khi ấy, tôi đã đem nước lại đổ vào trong nồi, sau đó đặt ở bếp lửa, rồi đã ngồi xuống. Do đó tâm đã được định tĩnh.

 

874. Khandhe aniccato disvā dukkhato ca anattato,
chetvāna āsave sabbe arahattamapāpuṇiṃ.

Sau khi nhìn thấy các uẩn là vô thường, là khổ não, và là vô ngã, tôi đã cắt đứt tất cả các lậu hoặc và đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.

 

875. Tadā ’gantvā bhikkhuniyo uṇhodakamapucchisuṃ,
tejodhātuṃ adhiṭthāya khippaṃ santāpayiṃ jalaṃ.

Khi ấy, các vị tỳ khưu ni sau khi quay lại đã hỏi về nước nóng. Sau khi chú nguyện vào bản thể của lửa, tôi đã đun nóng nước một cách mau chóng.

 

876. Vimhitā tā jinavaraṃ etamatthamasāvayuṃ,
taṃ sutvā mudito nātho imaṃ gāthaṃ abhāsatha:

Ngạc nhiên, các vị ni ấy đã trình lại sự việc này đến đấng Chiến Thắng cao quý. Sau khi nghe điều ấy, được hoan hỷ, đấng Bảo Hộ đã nói lên lời kệ này:

 

877. Yo ce vassasataṃ jīve kusīto hīnavīriyo,
ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo viriyamārabhato daḷhaṃ.”

Và người nào đã sống trăm năm, lười biếng, có sự tinh tấn thấp thỏi, cuộc sống một ngày là tốt hơn đối với người đang ra sức tinh tấn một cách bền bĩ.”[4]

 

878. Ārādhito mahāvīro mama suppaṭipattiyā,
āraddhaviriyānaggaṃ mamāha sa mahāmuni.

Được hài lòng với sự thực hành tốt đẹp của tôi, đấng Đại Hùng, bậc Đại Hiền Triết ấy đã nói tôi là đứng đầu trong số các vị ni có sự ra sức tinh tấn.

 

879. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

 

880. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

881. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Soṇā bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Soṇā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 

Soṇātheriyāpadānaṃ chaṭṭhaṃ

Ký sự về trưởng lão ni Soṇā là phần thứ sáu.

--ooOoo--

27. Bhaddākāpilāni-apadānaṃ

27. Ký Sự về Bhaddākāpilānī:

 

882. Padumuttaro nāma jino sabbadhammesu pāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.

Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.

 

883. Tadāhu haṃsavatiyaṃ videho nāma nāmato,
seṭṭhi pahūtaratano tassa jāyā ahos’ ahaṃ.

Khi ấy, ở tại Haṃsavatī có người triệu phú tên là Videha có rất nhiều châu báu. Tôi đã là vợ của người ấy.

 

884. Kadāci so narādiccaṃ upecca saparijjano,
dhammamassosi buddhassa sabbadukkhakkhayāvahaṃ.

Có lần nọ, người ấy cùng nhóm tùy tùng đã đi đến đấng Mặt Trời của nhân loại và đã lắng nghe Giáo Pháp đưa đến sự diệt tận tất cả khổ đau của đức Phật.

 

885. Sāvakaṃ dhutavādānaṃ aggaṃ kittesi nāyako,
sutvā sattāhikaṃ dānaṃ datvā buddhassa tādino.

Đấng Lãnh Đạo đã ngợi khen vị Thinh Văn đứng đầu trong số các vị thuyết về sự giũ bỏ (pháp đầu-đà). Sau khi lắng nghe, chồng tôi đã cúng dường vật thí đến đức Phật như thế ấy trong bảy ngày.

 

886. Nipacca sirasā pāde taṃ ṭhānaṃ abhipatthayi,
sa hāsayanto parisaṃ tadā hi narapuṅgavo.

Chồng tôi trong khi làm hội chúng vui vẻ đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đã ước nguyện vị thế ấy. Chính vào khi ấy, đấng Cao Quý của loài người ...

 

887. Seṭṭhino anukampāya imā gāthā abhāsatha:
“Lacchase patthitaṃ ṭhānaṃ nibbuto hohi puttaka.

... vì lòng thương tưởng đến người triệu phú, đã nói những lời kệ này: “Này con trai, ngươi sẽ đạt được vị thế đã ước nguyện rồi ngươi hãy Niết Bàn.

 

888. Satasahasse  ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.

Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

 

889. Tassa dhammesu dāyādo oraso dhammanimmito,
kassapo nāma nāmena hessasi satthusāvako.”

(Người nam này) sẽ trở thành nam thinh văn của bậc Đạo Sư, là người tha t Giáo Pháp ca v (Pht) y, là chánh thng, được to ra t Giáo Pháp, có tên là Kassapa.”

 

890. Taṃ sutvā mudito hutvā yāvajīvaṃ tadā jinaṃ,
mettacitto paricari paccayehi vināyakaṃ.

Nghe được điều ấy, chồng tôi đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái chồng tôi đã chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.

 

891. Sāsanaṃ jotayitvāna madditvā ca kutitthiye,
veneyye vinayitvā ca nibbuto so sasāvako.

Vị (Phật) ấy đã làm chói sáng Giáo Pháp, đã chế phục các ngoại đạo, đã hướng dẫn những ai đáng được hướng dẫn, rồi đã Niết Bàn cùng các vị Thinh Văn.

 

892. Nibbute tamhi lokagge pūjanatthāya satthuno,
ñātimitte samānetvā saha tehi akārayi.

Khi đấng Cao Cả của thế gian ấy đã Niết Bàn, nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đạo Sư chồng tôi đã tập hợp các bạn bè thân quyến rồi cùng với những người ấy đã cho xây dựng ... 

 

893. Sattayojanikaṃ thūpaṃ ubbiddhaṃ ratanāmayaṃ,
jalantaṃ sataraṃsīva sālarājaṃva phullitaṃ.

... ngôi bảo tháp làm bằng châu báu cao bảy do-tuần, chói sáng như là trăm ánh hào quang, được mở rộng ra như là hoa Sālā chúa.

 

894. Sattasatasahassāni pātiyo tattha kārayi,
naḷaggi viya jotantī rataneheva sattahi.

Tại nơi ấy, chồng tôi đã cho thực hiện bảy trăm ngàn chiếc đĩa nhỏ bằng chính bảy loại châu báu, chúng đang chói sáng như là ngọn lửa của cây sậy.

 

895. Gandhatelena pūretvā dīpānujjālayi tahiṃ,
pūjatthāya mahesissa sabbabhūtānukampino.

Chồng tôi đã cho đổ đầy với dầu thơm rồi đã cho thắp sáng các ngọn đèn tại nơi ấy nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ, đấng Bi Mẫn của mọi sanh linh.

 

896. Satta satasahassāni puṇṇakumbhāni kārayi,
rataneheva puṇṇāni pūjatthāya mahesino.

Chồng tôi đã cho thực hiện bảy trăm ngàn chậu đầy đặn được chứa đầy với thuần các loại châu báu nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ.

 

897. Majjhe aṭṭhaṭṭhakumbhīnaṃ ussitā kañcanagghiyā,
atirocanti vaṇṇena saradeva divākaro.

Ở giữa của mỗi nhóm tám chậu là những vật giá trị như vàng được chất đống. Chúng sáng rực với màu sắc tợ như ánh mặt trời vào mùa thu

 

898. Catudvāresu sobhanti toraṇā ratanāmayā,
ussitā phalakā rammā sobhanti ratanāmayā.

Chiếu sáng ở bốn cửa là các vòm cổng làm bằng châu báu. Chiếu sang là những tấm ván xinh xắn làm bằng châu báu được dựng đứng.

 

899. Virocanti parikkhittā avataṃsā sunimmitā,
ussitāni paṭākāni ratanāni virocare.

Chói sáng là các lẳng hoa khéo tạo ra được đặt vòng quanh. Chói sáng là các cờ xí bằng châu báu được dựng đứng.

 

900. Surattaṃ sukataṃ cetaṃ cetiyaṃ ratanāmayaṃ,
atirocati vaṇṇena sasañjhova divākaro.

Và ngôi bảo điện làm bằng ngọc quý này khéo được tô màu, khéo được thực hiện, sáng rực với màu sắc tợ như mặt trời vào lúc hoàng hôn.

 

901. Thūpassa vediyo tisso haritālena pūrayi,
ekaṃ manosilāyekaṃ añjanena ca ekikaṃ.

Ngôi bảo tháp có ba bệ thờ. Chồng tôi đã chất đầy một bệ với đá màu vàng, một bệ với đá màu đỏ, một bệ với đá màu đen.

 

902. Pūjametādisaṃ rammaṃ kāretvā varavādino,
adāsi dānaṃ saṅghassa yāvajīvaṃ yathābalaṃ.

Sau khi đã cho thực hiện việc cúng dường đáng yêu như thế ấy đến bậc Thuyết Giảng cao quý, chồng tôi đã dâng vật thí đến hội chúng tùy theo năng lực cho đến hết cuộc đời.

 

903. Sahāhaṃ seṭṭhinā tena tāni puññāni sabbaso,
yāvajīvaṃ karitvāna sahāva sugatiṃ gatā.

Sau khi đã cùng với người triệu phú ấy thực hiện toàn bộ những việc phước báu ấy cho đến hết cuộc đời, tôi đã đi đến cõi an vui cùng với chính người ấy.

 

904. Sampattiyonubhotvāna devatte atha mānuse,
chāyā viya sarīrena saha teneva saṃsariṃ.

Sau khi đã thọ hưởng sự thành công ở bản thể chư thiên rồi nhân loại, tôi đã luân hồi cùng với chính người ấy như là hình bóng với xác thân vậy.

 

905. Ekanavute ito kappe vipassī nāma nāyako,
uppajji cārunayano sabbadhammavipassako.

Trước đây chín mươi mốt kiếp, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī, vị có ánh mắt thu hút, vị thấy rõ tất cả các pháp đã hiện khởi

 

906. Tadā ’yaṃ bandhumatiyaṃ brāhmaṇo sādhusammato,
aḍḍho satthāgamen’ āsi dhanena ca suduggato.

Khi ấy ở tại Bandhumatī, người này là vị Bà-la-môn được xem là thánh thiện, giàu có nhờ vào sự đạt được kiến thức, và đã bị lâm vào cảnh vô cùng khó khăn về tài sản.

 

907. Tadāpi tass’ ahaṃ āsiṃ brahmaṇī samacetasā,
kadāci so dijavaro saṃgamesi mahāmuniṃ.

Cũng vào khi ấy, với tâm ý tương đồng tôi đã là nữ Bà-la-môn của người ấy. Có lần, người Bà-la-môn cao quý ấy đã đi đến bậc Đại Hiền Triết.

 

908. Nisinnaṃ janakāyasmiṃ desentaṃ amataṃ padaṃ,
sutvā dhammaṃ pamudito adāsi ekasāṭakaṃ.

(Đức Phật) ngồi ở đám người đang thuyết giảng về đạo lộ Bất Tử. Sau khi nghe Pháp, được hoan hỷ người ấy đã cúng dường một tấm vải choàng.

 

909. Gharamekena vatthenāganvānetaṃ mamabravi,
anumoda mahāpuññe dinnaṃ buddhassa sāṭakaṃ.

Quay về lại nhà với một mảnh vải, người ấy đã nói với tôi điều này: “Nàng hãy tùy hỷ việc phước lớn lao; tấm vải choàng đã được dâng đến đức Phật.”

 

910. Tadā ’haṃ añjaliṃ katvā anumodiṃ supīṇitā,
sudinno sāṭako sāmi buddhaseṭṭhassa tādino.

Khi ấy, hài lòng xiết bao tôi đã chắp tay lên nói lời tùy hỷ rằng: “Phu quân à, tấm vải choàng là đã khéo được dâng đến đức Phật tối thượng như thế ấy.”

 

911. Sukhito sajjito hutvā saṃsaranto bhavābhāvo,
bārāṇasipure ramme rājā āsi mahīpati.

Được an vui, trở nên gắn bó, trong khi luân hồi cõi này cõi khác, người ấy đã trở thành đức vua, vị chủ tể trái đất ở thành phố Bārāṇasī đáng yêu.

 

912. Tadā tassa mahesīhaṃ itthigumbassa uttamā,
tassātidayitā āsiṃ pubbasnehena bhattuno.

Khi ấy, tôi trở thành chánh hậu của người ấy, là tối cao trong đám nữ nhân. Tôi đã được cảm tình rất mực của người ấy do sự yêu mến trước đây của chồng.

 

913. Piṇḍāya vicarante so aṭṭha paccekanāyake,
disvā pamudito hutvā datvā piṇḍaṃ mahārahaṃ.

Sau khi nhìn thấy tám vị Lãnh Đạo Độc Giác đang đi quanh để khất thực, vị ấy đã trở nên hoan hỷ và đã dâng thức ăn vô cùng giá trị.

 

914. Puno nimantayitvāna katvā ratanamaṇḍapaṃ,
kammārehi kataṃ chattaṃ sovaṇṇaṃ satahatthakaṃ.

Sau khi thỉnh mời lần nữa, vị ấy đã thực hiện mái che bằng châu báu. Lọng che bằng vàng (rộng) trăm cánh tay đã được những người thợ rèn kiến thiết.

 

915. Samānetvāna te sabbe tesaṃ dānamadāsi so,
soṇṇāsanopaviṭṭhānaṃ pasanno sehi pāṇihi.

Sau khi đã hướng dẫn tất cả các ngài ấy tiến vào các chỗ ngồi bằng vàng, được tịnh tín vị ấy đã dâng cúng vật thí đến các ngài ấy bằng hai bàn tay của mình.

 

916. Tampi dānaṃ sah’ ādāsiṃ kāsirājen’ ahaṃ tadā,
punāhaṃ bārāṇasiyaṃ ajāyiṃ dvāragāmake.

Khi ấy, tôi cũng đã dâng cúng vật thí ấy cùng với đức vua xứ Kāsi. Tôi đã được sanh ra ở Bārāṇasī lần nữa, tại ngôi làng nhỏ ngoại thành.

 

917. Kuṭumbikakule phīte sukhito so sabhātuko,
jeṭṭhassa bhātuno jāyā ahosiṃ supatibbatā.

(Sanh ra) ở trong gia đình giàu có thịnh vượng, người ấy được an lạc, có em trai. Tôi đã là người vợ vô cùng chung thủy của người anh cả.

 

918. Paccekabuddhaṃ disvāna mama bhattukanīyasī,
bhāgannaṃ tassa datvāna āgate tamhi pāvadi.

Sau khi nhìn thấy vị Phật Độc Giác, người em gái của chồng tôi đã dâng phần cơm đến vị ấy, rồi khi chồng tôi đi đến đã thuật lại.

 

919. Nābhinandittha so dānaṃ tato tassa adās’ ahaṃ,
ūkhā āniya taṃ annaṃ puno tasseva so adā.

Chồng tôi không hoan hỷ với việc cúng dường. Do đó, tôi đã lấy lại phần cơm ấy từ bình bát rồi đã trao cho chồng. Chồng tôi đã cúng dường (phần cơm ấy) một lần nữa đến chính vị Phật ấy.

 

920. Tadannaṃ chaḍḍhayitvāna duṭṭhā buddhass’ ahaṃ tadā,
pattaṃ kalalapuṇṇaṃ taṃ adāsiṃ tassa tādino.

Khi ấy, tôi đã quăng bỏ đi phần cơm ấy và đã độc ác đối với đức Phật. Tôi đã dâng bình bát ấy chứa đầy bùn đến vị Phật như thế ấy.

 

921. Dāne ca gahaṇe ceva amejjhe padume yathā,
samacittamukhaṃ disvā tadāhaṃ saṃvijiṃ bhusaṃ.

Về vật cho cũng như việc nhận giống như là vật không trong sạch và đóa hoa sen, khi ấy tôi đã nhìn khuôn mặt có tâm bình thản và đã vô cùng chấn động.

 

922. Puno pattaṃ gahetvāna sodhayitvā sugandhinā,
pasannacittā pūretvā saghataṃ sakkharaṃ adaṃ.

Sau khi nhận lại bình bát, tôi đã làm sạch bằng chất thơm, rồi với tâm tịnh tín, tôi đã chứa đầy với bơ lỏng và đã dâng lên một cách cung kính.

 

923. Yattha yatthūpapajjāmi surūpā homi dānato,
buddhassa apakārena duggandhā vadanena ca.

Ở bất cứ nơi đâu tôi được sanh ra, tôi đều có sắc xinh đẹp do sự bố thí và có mùi hôi do lời nói và do thái độ không phải phép đối với đức Phật.

 

924. Puna kassapavīrassa niṭṭhāyantamhi cetiye,
sovaṇṇa-iṭṭhakavaraṃ adāsiṃ muditā ahaṃ.

Lần khác, khi ngôi bảo điện của đấng Chiến Thắng Kassapa đang được hoàn tất, được hoan hỷ tôi đã cúng dường phiến ngói cao quý bằng vàng.

 

925. Catujjātena gandhena nicayitvā tamiṭṭhakaṃ,
muttā duggandhadosamhā sabbaṅgasusamāgatā.

Tôi đã tẩm phiến ngói ấy bằng hương thơm sanh lên từ bốn nguồn. Tôi đã được thoát khỏi khuyết điểm về mùi hôi thối và đã được thành tựu tốt đẹp về toàn bộ các phần thân thể.

 

926. Sattapātisahassāni rataneheva sattahi,
kāretvā ghatapūrāni vaṭṭiyo ca sahassaso.

(Chồng tôi) đã cho thực hiện bảy ngàn cái đĩa bằng chính bảy loại châu báu chứa đầy bơ lỏng và hàng ngàn tim đèn.

 

927. Pakkhipitvā padīpetvā ṭhapayī sattapantiyo,
pūjatthaṃ lokanāthassa vippasannena cetasā.

Với tâm ý thanh tịnh, sau khi đã đặt (tim đèn) vào và thắp sáng, vị ấy đã xếp thành bảy hàng nhằm mục đích cúng dường đến bậc Lãnh Đạo Thế Gian.

 

928. Tadāpi tamhi puññamhi bhāginī ’haṃ visesato,
puna kāsisu sañjāto sumitto iti vissuto.

Khi ấy, tôi cũng có phần đóng góp đặc biệt trong việc phước thiện ấy. Vị ấy đã được sanh ra ở xứ Kāsi lần nữa, được nổi danh là Sumitta.

 

929. Tassāhaṃ bhariyā āsiṃ sukhitā sajjitā piyā,
tadāpi paccekamunino adāsi ghanaveṭhanaṃ.

Tôi đã là vợ của người ấy, được an vui, được gắn bó, được yêu quý. Khi ấy, người ấy cũng đã dâng đến vị Hiền Triết Độc Giác tấm vải choàng bền chắc.

 

930. Tassāpi bhāginī āsiṃ moditvā dānamuttamaṃ,
punāpi kāsiraṭṭhamhi jāto koliyajātiyā.

Tôi đã hoan hỷ về việc bố thí tối thượng và cũng đã có phần trong việc ấy. Vị ấy cũng đã sanh ra lần nữa trong quốc độ Kāsi thuộc dòng dõi Koliya.

 

931. Tadā koliyaputtānaṃ satehi saha pañcahi,
pañca paccekabuddhānaṃ satāni samupaṭṭhahi.

Khi ấy, cùng với năm trăm người con trai dòng Koliya, vị ấy đã hộ độ năm trăm vị Phật Độc Giác.

 

932. Temāsaṃ tappayitvāna adāsi ca ticīvaraṃ,
jāyā tassa tadā āsiṃ puññakammapathānugā.

Và sau khi đã làm hài lòng (chư Phật Độc Giác) trong ba tháng, vị ấy đã dâng ba y. Khi ấy, đi theo lộ trình của nghiệp phước thiện tôi đã là vợ của vị ấy.

 

933. Tato cuto ahu rājā nando nāma mahāyaso,
tassāpi mahesī āsiṃ sabbakāmasamiddhinī.

Từ nơi ấy chết đi, vị ấy đã trở thành vị vua tên là Nanda có danh tiếng vĩ đại. Tôi cũng đã trở thành chánh hậu của vị ấy, có sự thành tựu về tất cả các điều dục lạc.

 

934. Tadā ca so bhavitvāna brahmadatto mahīpati,
padumavatīputtānaṃ paccekamuninaṃ tadā.

Và khi ấy, vị ấy đã trở thành vị chúa tể Brahmadatta. Khi ấy, đối với các bậc Hiền Triết Độc Giác con trai của bà Padumavatī, ...

 

935. Satāni pañc’ anūnāni yāvajīvaṃ upaṭṭhahi,
rājuyyāne nivāsetvā nibbutāni ca pūjayi.

... vị ấy đã hộ độ năm trăm vị không thiếu vị nào cho đến hết cuộc đời. Chư Phật Độc Giác đã cư ngụ tại vườn hoa của đức vua rồi đã Niết Bàn, và vị ấy đã tôn vinh. 

 

936. Cetiyāni ca kāretvā pabbajitvā ubho mayaṃ,
bhāvetvā appamaññāyo brahmalokaṃ aggamhase.

Và sau khi cho xây dựng các ngôi bảo điện, cả hai chúng tôi đã xuất gia. Sau khi tu tập các vô lượng (tâm), chúng tôi đã đi đến cõi Phạm Thiên.

 

937. Tato cuto mahātitthe sujāto pipphalāyano,
mātā sumanadevīti kosiyagotto dijo pitā.

Từ nơi ấy chết đi, người ấy đã được sanh ra tại Mahātittha là Pipphalāyana. Mẹ là Sumanadevī, cha là người Bà-la-môn dòng tộc Kosiya.

 

938. Ahaṃ maddajanapade sāgalāyaṃ puruttame,
kapilassa dijass’ āsiṃ dhītā mātā sucīmatī.

Tôi đã là người con gái của vị Bà-la-môn Kapila, mẹ là Sucīmatī, tại kinh thành Sāgalā trong xứ sở Madda.

 

939. Ghanakañcanabimbena nimmiṇitvāna maṃ pitā,
adā kassapadhīrassa kāmāsāvajjitassa maṃ.

Sau khi tạo ra tôi với hình tượng bằng vàng khối, người cha đã gã tôi cho bậc trí Kassapa là người đã kiêng cử các dục.

 

940. Kadāci so kāruṇiko gantvā kammantapekkhanaṃ,
kākādikehi khajjante pāṇe disvāna saṃviji.

Vào lúc nọ, vị có lòng bi mẫn ấy đã đi xem xét công việc làm. Sau khi nhìn thấy các sinh vật bị những loài như là quạ, v.v... ăn thịt, vị ấy đã bị chấn động.

 

941. Ghare cāhaṃ tile jāte disvānātapatāpane,
kimi kākehi khajjante saṃvegamalabhiṃ tadā.

Và tôi ở nhà, sau khi nhìn thấy những cây mè mọc lên trong sự thiêu đốt của ánh nắng mặt trời và loài sâu bọ bị các con quạ ăn thịt, khi ấy tôi đã có sự động tâm.

 

942. Tadā so pabbajī dhīro ahaṃ tamanupabbajiṃ,
pañca vassāni nivasiṃ paribbājavate ahaṃ.

Khi ấy, con người sáng suốt ấy đã xuất gia. Tôi đã xuất gia theo vị ấy. Tôi đã sống theo hạnh du sĩ ngoại đạo trong năm năm.

 

943. Yadā pabbajitā āsi gotamī jinaposikā,
tadā ’haṃ tamupāgantvā buddhena anusāsitā.

Đến khi bà Gotamī người nuôi dưỡng đấng Chiến Thắng đã được xuất gia, khi ấy tôi đã đi theo bà ấy và đã được chỉ dạy bởi đức Phật.

 

944. Na cireneva kālena arahattamapāpuṇiṃ,
aho kalyāṇamittattaṃ kassapassa sirīmato.

Trong thời gian không bao lâu tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. Ôi, tính chất bạn hữu tốt lành đối với vị Kassapa vinh quang!

 

945. Suto buddhassa dāyādo kassapo susamāhito,
pubbe nivāsaṃ yo vedi saggāpāyañca passati.

Kassapa là con trai, là người thừa tự của đức Phật, khéo được định tĩnh, nhìn thấy được cõi trời và địa ngục, và là vị đã biết được đời sống trước đây.

 

946. Atho jātikkhayaṃ patto abhiññāvosito muni,
etāhi tīhi vijjāhi tevijjo hoti brāhmaṇo.

Rồi (vị ấy) đã đạt đến sự diệt tận của sự sanh, là vị hiền triết được hoàn hảo về thắng trí, với ba sự hiểu biết ấy trở thành vị Bà-la-môn có tam minh.

 

947. Tatheva bhaddā kāpilānī tevijjā maccuhāyinī,
dhāreti antimaṃ dehaṃ jetvā māraṃ savāhiniṃ.

Tương tợ như thế ấy, Bhaddā Kāpilānī là vị ni có tam minh, có sự dứt bỏ Tử Thần, mang thân mạng cuối cùng sau khi đã chiến thắng Ma Vương cùng với đạo quân binh.

 

948. Disvā ādīnavaṃ loke ubho pabbajitā mayaṃ,
tyamhā khīṇāsavā dantā sītibhūtāmha nibbutā.

Sau khi nhìn thấy điều tai hại ở thế gian, cả hai chúng tôi đã xuất gia. Chúng tôi đây có các lậu hoặc đã cạn kiệt, đã được huấn luyện, đã có được trạng thái mát mẻ, Niết Bàn.

 

949. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

 

950. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

951. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Bhaddākāpilānī bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.

Tỳ khưu ni Bhaddākāpilānī đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 

Bhaddākāpilānitheriyāpadānaṃ sattamaṃ.  

Ký sự về trưởng lão ni Bhaddākāpilānī là phần thứ bảy.

--ooOoo--

28. Yasodharāpadānaṃ

28. Ký Sự về Yasodharā:

  

952. Ekasmiṃ samaye ramme iddhe rājagahe pure,
pabbhāramhi varekasmiṃ vasante naranāyake.

Vào một thuở nọ, đấng Lãnh Đạo nhân loại đang ngự tại một sườn núi cao quý ở thành Rājagaha đáng yêu, trù phú.[5]

 

953. Vasantiyā tamhi nagare ramme bhikkhunupassaye,
yasodharābhikkhuniyā evaṃ āsi vitakkitaṃ:

Khi đang cư ngụ ở trong thành phố ấy tại trú xứ đáng yêu của các tỳ khưu ni, đã có suy nghĩ như vầy khởi đến vị tỳ khưu ni Yasodharā rằng:

 

954. “Nando rāhulabhaddo ca sāvakaggā tatheva ca,
suddhodano mahārājā gotamī ca pajāpatī.

Nanda, Rāhula hiền thiện, và tương tợ y như thế (hai) vị tối thượng Thinh Văn, đại vương Suddhodana, và bà Gotamī Pajāpatī, ...

 

955. Abhiññātā ca mahātherā theriyo ca mahiddhikā,
santiṃ gatāva āsuṃ te dīpaccīva nirāsavā.

... các vị đại trưởng lão đã đạt thắng trí, và các trưởng lão ni có đại thần lực, các vị ấy đã ngự đến nơi an tịnh không còn lậu hoặc như là tim của cây đèn hết nhiên liệu.

 

956. Lokanāthe dharanteva ahampi ca sivaṃ padaṃ,
gamissāmī’ti cintetvā passantī āyumattano.

Và luôn cả ta nữa cũng sẽ đi đến vị thế an toàn ngay trong khi đấng Lãnh Đạo Thế Gian còn hiện tiền.” Trong khi xem xét tuổi thọ của mình, vị ni đã suy nghĩ như thế.

 

957. Passitvā āyusaṅkhāraṃ tadaheva khayaṃ gataṃ,
pattacīvaramādāya nikkhamitvā sakassamā.

Sau khi xem xét thọ hành sẽ đi đến sự hoại diệt trong chính ngày hôm ấy, vị ni đã cầm lấy bình bát và y rồi rời khỏi chốn tịnh cư của mình.

 

958. Purakkhatā bhikkhunīhi satehi sahassehi sā,
mahiddhikā mahāpaññā sambuddhaṃ upasaṅkami.

Vị ni có đại thần lực có đại trí tuệ ấy đã dẫn đầu một trăm ngàn tỳ khưu ni đi đến bậc Toàn Giác.

 

959. Sambuddhaṃ abhivādetvā satthuno cakkalakkhino,
nisinnā ekamantamhi idaṃ vacanamabravi:

Sau khi đảnh lễ bậc Toàn Giác, vị ni ấy đã ngồi xuống ở một bên và đã nói lời nói này với bậc Đạo Sư là vị có dấu hiệu bánh xe:

 

960. “Aṭṭhasattativassā ’haṃ pacchimo vattate vayo,
pabbhāraṃ hi anuppattā ārocemi mahāmune.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, con đã bảy mươi tám tuổi. Giai đoạn cuối cùng của tuổi tác đang tiến đến. Con đã đạt đến ngay ở sườn dốc, con xin thưa rõ.

 

961. Paripakko vayo mayhaṃ parittaṃ mama jīvitaṃ,
pahāya vo gamissāmi kataṃ me saraṇamattano.

Sự tiêu hoại của con đã chín muồi, mạng sống của con còn chút ít. Rời bỏ Ngài, con sẽ ra đi. Sự nương nhờ của bản thân đã được con thực hiện.

 

962. Vayaṃ hi pacchime kāle maraṇaṃ uparundhati,
ajja rattiṃ mahāvīra pāpuṇissāmi nibbutiṃ.

Bởi vì ở thời điểm cuối cùng sự tiêu hoại dừng lại là sự chết. Bạch đấng Đại Hùng, hôm nay vào ban đêm con sẽ thành tựu Niết Bàn.”

 

963. Natthi jāti jarā vyādhi maraṇañca yahiṃ mune,
tattha gacchām’ ahaṃ vīra gato yattha na dissati.

Bạch đấng Hiền Triết, (Niết Bàn) là nơi không có sự sanh, sự già, sự bệnh và sự chết. Bạch đấng Anh Hùng, nơi nào đã đi đến là không còn được nhìn thấy thì con đi đến nơi ấy.

 

964. Yāvatā parisā ettha samupāsanti satthuno,
aparādhaṃ pajānanti khamantaṃ sammukhā mune.

Bạch đấng Hiền Triết, cho đến nhóm người của bậc Đạo Sư ngồi chung ở nơi đây (nếu) nhận biết lỗi lầm (nào của tôi), xin quý vị hãy tha thứ ở trước mặt.

 

965. Saṃsaritvā ca saṃsāre khalitaṃ ce mamaṃ tayi,
ārocemi mahāvīra aparādhaṃ khamassu me.

Và sau khi đã xoay vần trong vòng luân hồi, nếu có điều sai trái của con đối với Ngài, bạch đấng Đại Hùng con xin thưa rõ, xin Ngày hãy tha thứ lỗi lầm cho con.”

 

966. Sutvāna tassā vacanaṃ munindo idamabravi,
kimuttaraṃ te vakkhāmi nibbānāya vajantiyā.

Sau khi lắng nghe lời nói của vị ni ấy, đấng Hiền Triết Vương đã nói điều này: “Ta sẽ nói điều gì hơn về nàng là người đang đi đến Niết Bàn?

 

967. Iddhiṃ cāpi nidassehi mama sāsanakārike,
parisānañca sabbāsaṃ kaṅkhaṃ chindassu sāsane.

Và nàng cũng nên thị hiện thần thông cho các vị hành theo Giáo Pháp của Ta được thấy. Và hãy chặt đứt sự nghi ngờ về Giáo Pháp cho tất cả các chúng.”

 

968. Sutvā taṃ munino vācaṃ bhikkhunī sā yasodharā,
vanditvā munirājaṃ taṃ idaṃ vacanamabravi:

Sau khi lắng nghe lời nói của bậc Hiền Triết ấy, vị tỳ khưu ni Yasodharā ấy đã đảnh lễ đấng Hiền Triết Vương ấy và đã nói lời nói này:

 

969. “Yasodharā ahaṃ vīra agāre te pajāpati.
sākiyamhi kule jātā itthīyaṅge patiṭṭhitā.

Bạch đấng Anh Hùng, con là Yasodharā, ở tại gia là người vợ của Ngài. Được sanh ra trong gia tộc Sakya, con đã duy trì phận sự của người nữ.

 

970. Thīnaṃ satasahassānaṃ navutīnaṃ chaḷuttari,
agāre te ahaṃ vīra pāmokkhā sabba-issarā.

Bạch đấng Anh Hùng, trong số một trăm chín mươi sáu ngàn phụ nữ ở nhà của Ngài, con là người đứng đầu, là người chủ quản tất cả.

 

971. Rūpācāraguṇūpetā yobbanaṭṭhā piyaṃvadā,
sabbā maṃ apacāyanti devatā viya mānusā.

Là người có được sắc đẹp, tánh tình, và đức hạnh, ở vào tuổi trẻ, có lời nói đáng yêu, tất cả chư thiên cũng như loài người đều quý trọng con.

 

972. Kaññāsahassappamukhā sakyaputtanivesane,
samānasukhadukkhā tā devatā viya nandane.

Con đứng đầu một ngàn thiếu nữ ở trong cung của người con trai dòng Sakya. Các cô ấy cùng vui buồn giống nhau tợ như chư thiên ở (vườn hoa) Nandana.

 

973. Kāmadhātumatikkantā saṇṭhitā rūpadhātuyā,
rūpena sadisā natthi ṭhapetvā lokanāyakaṃ.”

Con đã vượt lên trên lãnh vực dục tình, được khẳng định về mặt thể hình, không có người tương đương về sắc đẹp ngoại trừ đấng Lãnh Đạo Thế Gian.”

 

974. Evamādīni vatvāna uppatitvāna ambaraṃ,
iddhi anekā dassesi buddhānuññā yasodharā.

Sau khi đã nói như thế, v.v... Yasodharā, với sự cho phép của đức Phật, đã bay lên không trung và đã thị hiện vô số thần thông.

 

975. Cakkavāḷasamaṃ kāyaṃ sīsaṃ uttarato kuru,
ubho pakkhā duve dīpā jambudīpo sarīrato.

(Yasodharā đã thị hiện) cơ thể tương đương với bầu vũ trụ, đầu là (đảo) Kuru ở về phía bắc, hai cánh là hai hòn đảo, thân mình là đảo Jambu,[6] ...

 

976. Dakkhiṇañca saraṃ piñjaṃ nānāsākhā tu pattakā,
cando ca suriyo akkhi merupabbatato sikhā.

... và đuôi công là cái hồ ở phía nam nhưng các cánh chim là các cành lá khác nhau, mặt trăng và mặt trời là mắt, núi Meru là chóp đỉnh, ...

 

977. Cakkavāḷagiri tuṇḍaṃ jamburukkhaṃ samūlakaṃ,
vījamānā upāgantvā vandate lokanāyakaṃ.

...ngọn núi của bầu vũ trụ là mỏ chim. Trong lúc phe phẩy cây Jambu cùng với cội rễ (làm cây quạt), vị ni đã đi đến và đảnh lễ đấng Lãnh Đạo Thế Gian.

 

978. Hatthivaṇṇaṃ tathev’ assaṃ pabbataṃ jaladhiṃ tathā,
candimaṃ suriyaṃ meruṃ sakkavaṇṇañca dassayi.

Tương tợ y như thế, vị ni đã thị hiện hình dáng con voi, con ngựa, ngọn núi, và biển cả, rồi mặt trăng, mặt trời, núi Meru, và vóc dáng của vị trời Sakka.

 

979. “Yasodharā ahaṃ vīra pāde vandāmi cakkhuma,”
sahassaṃ lokadhātūnaṃ phullapadmena chādayi.

Bạch đấng Anh Hùng, bạch đấng Hữu Nhãn, con là Yasodharā đảnh lễ ở bàn chân (Ngài). Con đã che khuất một ngàn thế giới bằng đóa sen nở rộ.”

 

980. Brahmavaṇṇañca māpetvā dhammaṃ desesi suññataṃ,
“Yasodharā ahaṃ vīra pāde vandāmi cakkhuma.

Và sau khi hóa hiện ra vóc dáng của đấng Brahma, vị ni đã thuyết giảng Giáo Pháp về không tánh. “Bạch đấng Anh Hùng, bạch đấng Hữu Nhãn, con là Yasodharā đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).

 

981. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
cetopariyañāṇassa vasī homi mahāmuni.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, con đã có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.

 

982. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu visodhitaṃ,
sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo.

Con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.

 

983. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāne tatheva ca,
ñāṇaṃ mayhaṃ mahāvīra uppannaṃ tava santike.

Bạch đấng Đại Hùng, trí của con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.

 

984. Buddhānaṃ lokanāthānaṃ saṅgamaṃ te sudassitaṃ,
adhikāraṃ bahuṃ mayhaṃ tuyhatthāya mahāmune.

Sự hội tụ của chư Phật là các đấng Lãnh Đạo Thế Gian đã được Ngài nhìn thấy rõ. Bạch đấng Đại Hiền Triết, có nhiều hành động hướng thượng của con là nhằm mục đích về Ngài.

 

985. Yaṃ mayhaṃ purimaṃ kammaṃ kusalaṃ sarase mune,
tuyhatthāya mahāvīra puññaṃ upacitaṃ mayā.

Bạch đấng Hiền Triết, xin Ngài nhớ lại thiện nghiệp trước đây của con. Bạch đấng Đại Hùng, phước báu đã được con tích lũy là nhằm mục đích về Ngài.

 

986. Abhabbaṭṭhāne vajjetvā vārayitvā anācaraṃ,
tuyhatthāya mahāvīra sañcattaṃ jīvitaṃ mayā.

Bạch đấng Đại Hùng, sau khi đã tránh xa những nơi không thích hợp và đã ngăn trừ điều không giới hạnh, mạng sống đã được con hy sinh là nhằm mục đích về Ngài.

 

987. Nekakoṭisahassānaṃ bhariyatthāya ’dāsi maṃ,
na tattha vimanā homi tuyhatthāya mahāmuni.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí con nhằm mục đích làm vợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi[7] lần. Con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.

 

988. Nekakoṭisahassānaṃ upakārāya ’dāsi maṃ,
na tattha vimanā homi tuyhatthāya mahāmuni.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí con vì sự hỗ trợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.

 

989. Nekakoṭisahassānaṃ bhojanatthāya ’dāsi maṃ,
na tattha vimanā homi tuyhatthāya mahāmuni.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí con nhằm mục đích vật thực (cho kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.

 

990. Nekakoṭisahassāni jīvitāni pariccajiṃ,
bhayamokkhaṃ karissaṃ ti cajāmi mama jīvitaṃ.

Con đã từ bỏ nhiều ngàn koṭi mạng sống. Con từ bỏ mạng sống của con (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ thực hiện sự giải thoát khỏi nỗi sợ hãi.’

 

991. Aṅgagate alaṅkāre vatthe nānāvidhe bahū,                         

itthimaṇḍe na gūhāmi tuyhatthāya mahāmuni.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, con không cất giấu các đồ trang sức được dùng cho cơ thể, nhiều vải vóc các loại, các vật dụng của phụ nữ là nhằm mục đích về Ngài.

 

992. Dhanadhaññapariccāgaṃ gāmāni nigamāni ca,
khettā puttā ca dhītā ca pariccattā mahāmune.

Con đã dứt bỏ tài sản, lúa gạo, các làng, và các phố chợ. Bạch đấng Đại Hiền Triết, các ruộng vườn, những người con trai, và con gái là đã được dứt bỏ.

 

993. Hatthī assā gavā cāpi dāsiyo paricārikā,
tuyhatthāya mahāvīra pariccattā asaṅkhiyā.

Bạch đấng Đại Hùng, không thể đếm được những con voi, ngựa, trâu bò, luôn cả các nữ tỳ và tớ gái đã được dứt bỏ là nhằm mục đích về Ngài.

 

994. Yaṃ mayhaṃ paṭimantesi dānaṃ dassāmi yācake,
vimanaṃ me na passāmi dadato dānamuttamaṃ.

Về việc Ngài bảo con rằng: ‘Ta sẽ cho vật thí đến người hành khất,’ con không nhìn thấy sự bất bình của con trong khi Ngài bố thí vật thí tối thượng.

 

995. Nānāvidhaṃ bahuṃ dukkhaṃ saṃsāre ca bahubbidhe,
tuyhatthāya mahāvīra anubhuttaṃ asaṅkhiyaṃ.

Bạch đấng Đại Hùng,con đã trải qua nhiều khổ đau khác loại không thể đếm được, và ở sự luân hồi trong nhiều hình thức là nhằm mục đích về Ngài.

 

996. Sukhappattā na modāmi na ca dukkhesu dummanā,
sabbattha tulitā homi tuyhatthāya mahāmune.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, đạt được sung sướng con không vui thích và không có tâm bực bội trong những khổ đau, con được quân bình trong mọi trường hợp là nhằm mục đích về Ngài.

 

997. Anumaggena sambuddho yaṃ dhammaṃ abhinīhari,
anubhutvā sukhaṃ dukkhaṃ patto bodhiṃ mahāmuni.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, theo con đường bậc Toàn Giác đã phát nguyện về pháp (giải thoát), Ngài đã trải qua lạc khổ và đã đạt đến sự giác ngộ.

 

998. Brahmadevañca sambuddhaṃ gotamaṃ lokanāyakaṃ,
aññesaṃ lokanāthānaṃ saṅgamā te bahū mayā.

Bạch vị trời Phạm Thiên, bậc Toàn Giác, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Gotama, đối với các đấng Hộ Trì Thế Gian khác, Ngài với con đã có nhiều lần gặp gỡ.

 

999. Adhikāraṃ bahuṃ mayhaṃ tuyhatthāya mahāmune,
gavesato buddhadhamme ahaṃ te paricārikā.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, nhiều hành động hướng thượng của con là nhằm mục đích về Ngài. Con là nữ tỳ của Ngài trong lúc Ngài tầm cầu Phật Pháp.

 

1000. Kappe satasahasse ca caturo ca asaṅkhiye,
dīpaṅkaro mahāvīro uppajji lokanāyako.

Vào thuở bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, bậc Đại Anh Hùng, vị Lãnh Đạo Thế Gian Dīpaṅkara đã hiện khởi.

 

1001. Paccantadesavisaye nimantetvā tathāgataṃ,
tassa āgamanaṃ maggaṃ sodhenti tuṭṭhamānasā.

Sau khi đã thỉnh mời đức Như Lai, những người ở khu vực vùng biên địa làm sạch sẽ con đường đi đến của Ngài với tâm hoan hỷ.

 

1002. Tena kālena so āsi sumedho nāma brāhmaṇo,
maggañca paṭiyādesi āyato sabbadassino.

Vào thời điểm ấy, vị ấy đã là người Bà-la-môn tên Sumedha và đã sửa soạn con đường của đấng Toàn Tri đang đi đến.

 

1003. Tena kālen’ ahaṃ āsiṃ kaññā brāhmaṇasambhavā,
sumittā nāma nāmena upagañchiṃ samāgamaṃ.

Vào thời điểm ấy, con đã là người thiếu nữ xuất thân Bà-la-môn tên Sumittā. Con đã đi đến cuộc tụ hội.

 

1004. Aṭṭha uppalahatthāni pūjanatthāya satthuno,
ādāya janasammejjha addasaṃ isimuggataṃ.

Con đã cầm tám nắm hoa sen nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đạo Sư. Con đã nhìn thấy vị ẩn sĩ được nổi bậc ở giữa đám người.

 

1005. Cīrānupari āsīnaṃ atikantaṃ manoharaṃ,
disvā tadā amaññissaṃ “Saphalaṃ jīvitaṃ mama.”

Sau khi nhìn thấy con người đang ngồi khoác áo vỏ cây vô cùng đáng yêu, quyến rũ đang ngồi, khi ấy con đã nghĩ rằng: ‘Mạng sống của ta là có kết quả.’

 

1006. Parakkamaṃ taṃ saphalaṃ addasaṃ isino tadā,
pubbakammena sambuddhe cittañcāpi pasīdi me.

Khi ấy, con đã nhìn thấy sự nỗ lực ấy của vị ẩn sĩ có được kết quả. Do nghiệp quá khứ, tâm của con cũng đã tịnh tín vào đấng Toàn Giác.

 

1007. Bhiyyo cittaṃ pasādesiṃ ise uggatamānase,
deyyaṃ aññaṃ na passāmi demi pupphāni te ise.

Con đã có tâm tịnh tín hơn nữa đối với vị ẩn sĩ có tâm ý hướng thượng. (Con đã nói rằng): ‘Này vị ẩn sĩ, tôi không nhìn thấy vật nào khác nên được cúng dường, tôi cho ông các đóa hoa.

 

1008. Pañca hatthā tava hontu tayo hontu mamaṃ ise,
tena siddhi samā hotu bodhatthāya tavaṃ ise.

Này vị ẩn sĩ, hãy là của ông năm nắm, hãy là của tôi ba nắm. Này vị ẩn sĩ, như thế sự thành tựu hãy là bằng nhau đối với mục đích giác ngộ của Ngài.’

 Bhāṇavāraṃ catutthaṃ.
Tụng Phẩm thứ tư.

1009. Isi gahetvā pupphāni āgacchantaṃ mahāyasaṃ,
pūjesi janasammajjhe bodhatthāya mahā-isiṃ.

Sau khi cầm lấy các đóa hoa, vị ẩn sĩ nhằm mục đích giác ngộ, ở giữa đám người, đã cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ có danh tiếng vĩ đại đang đi đến.

 

1010. Passitvā janasammajjhe dīpaṅkaro mahāmuni,
viyākāsi mahāvīro isiṃ uggatamānasaṃ.

Bậc Đại Hiền Triết Dīpaṅkara, đấng Đại Hùng đã nhìn thấy ở giữa đám người và đã chú nguyện cho vị ẩn sĩ có tâm ý hướng thượng rằng:

 

1011. Samacittā samakammā samakārī bhavissati,
piyā hessati kammena tuyhatthāya mahā-ise.

Này vị đại ẩn sĩ, (người nữ này) sẽ có tâm tương đương, có nghiệp tương đương, có hành động tương đương, sẽ trở thành người vợ do nghiệp báu đối với mục đích của ngươi.’

 

1012. Sudassanā suppiyā ca manāpā piyavādinī,
tassa dhammesu dāyādā piyā hessati itthikā.

(Người nữ này) có dáng nhìn xinh đẹp, vô cùng đáng yêu, vui vẻ, có lời nói đáng mến, sẽ trở thành người vợ yêu quý, người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy.

 

1013. Yathāpi bhaṇḍasāmuggaṃ anurakkhanti sāmino,
evaṃ kusaladhammānaṃ anurakkhissate ayaṃ.

Cũng giống như các người chủ gìn giữ cái rương của cải, người nữ này sẽ hộ trì như thế ấy đối với các thiện pháp.

 

1014. Tassa te anukampantī pūrayissati pāramī,
sīhova pañjaraṃ bhetvā pāpuṇissati bodhiyaṃ.

Trong khi thương tưởng đến ngươi đây, (người nữ này) sẽ làm tròn đủ các pháp toàn hảo, sẽ đạt được quả vị giác ngộ tương tợ như con sư tử phá vỡ cái chuồng.’

 

1015. Aparimeyye ito kappe yaṃ maṃ buddho viyākari,
taṃ vācaṃ anumodantī evaṃkārī bhaviṃ ahaṃ.

Ấy là điều đức Phật đã chú nguyện cho con trước đây vô lượng kiếp. Trong khi tùy hỷ lời nói ấy, con đã là người có hành động như vậy.

 

1016. Tassa kammassa sukatassa tattha cittaṃ pasādayiṃ,
devamānusakaṃ yoniṃ upapajja asaṅkhiyaṃ.

Tại nơi ấy, con đã có tâm tịnh tín đối với việc làm đã được thực hiện tốt đẹp ấy. Con đã sanh vào bản thể trời và người với số lần không thể đếm được.

 

1017. Anubhotvā sukhaṃ dukkhaṃ devesu mānusesu ca,
pacchime bhave sampatte ajāyiṃ sākiye kule.

Con đã trải qua lạc khổ ở các cõi trời và ở loài người. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, con đã sanh ra trong gia tộc Sakya.

 

1018. Rūpavatī bhogavatī yasasīlavatī tathā,
sabbaṅgasampadā homi kusalesu atisakkatā.

Con có sắc đẹp, có của cải, có danh vọng và giới hạnh tương tợ như thế. Con có sự thành tựu vẹn toàn thân thể, được vô cùng kính trọng về các điều lành.

 

1019. Lābhaṃ silokaṃ sakkāraṃ lokadhammasamāgamaṃ,
cittañca dukkhitaṃ natthi vasāmi akutobhayā.

Lợi lộc, danh vọng, cung kính, sự tổng hợp các pháp thế gian, và tâm bị khổ não là không có, con sống không sợ hãi.[8]

 

1020. Nibbinditvāna saṃsāre pabbajiṃ anagāriyaṃ,
sahassaparivārena pabbajitvā akiñcanā.

Con đã nhàm chán các sự luôn hồi và đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Sau khi xuất gia cùng với một ngàn người hầu cận, con không có gì.

 

1021. Agāraṃ vijahitvāna pabbajiṃ anagāriyaṃ,
addhamāse asampatte catusaccaṃ apāpuṇiṃ.

Sau khi từ bỏ gia đình, con đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Khi chưa đạt đến nửa tháng, con đã đạt được bốn Sự Thật.

 

1022. Cīvaraṃ piṇḍapātaṃ ca paccayaṃ sayanāsanaṃ,
upanentī bahū neke sāgarasseva ūmiyo.

Nhiều người, không phải một, đem lại y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi tợ như các làn sóng của biển cả.

 

1023. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không còn lậu hoặc.

 

1024. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

1025. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Con đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

1026. Evaṃ bahuvidhaṃ dukkhaṃ sampatti ca bahubbidhā,
visuddhabhāvaṃ sampattā labhāmi sabbasampadā.

Như vậy là có khổ đau đa dạng và thành công nhiều hình thức. Được đạt đến trạng thái thanh tịnh, con nhận lãnh mọi sự thành tựu.

 

1027. Sā dadāti sakattānaṃ puññatthāya mahesino,
sahāyasampadā honti nibbānapadamasaṅkhataṃ.

Nàng ấy bố thí chính bản thân mình vì mục đích phước báu của vị đại ẩn sĩ. Họ có sự thành tựu về bạn hữu. Vị thế Niết Bàn là không còn tạo tác.

 

1028. Parikkhīṇaṃ atītaṃ ca paccuppannaṃ anāgataṃ,
sabbaṃ kammaṃ mamaṃ khīṇaṃ pāde vandāmi cakkhuma.

Quá khứ, hiện tại, và vị lai đã được cạn kiệt, tất cả nghiệp của con đã được cạn kiệt. Bạch đấng Hữu Nhãn, con xin đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).”

 

Itthaṃ sudaṃ Yasodharā bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.

Tỳ khưu ni Yasodharā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 

Yasodharātheriyāpadānaṃ aṭṭhamaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni Yasodharā là phần thứ tám.

 

--ooOoo--

29. Dasabhikkhunīsahassāpadānaṃ

29. Ký Sự về 10.000 vị Tỳ Khưu Ni:

 

1029. Kappe ca satasahasse caturo ca asaṅkhiye,
dīpaṅkaro nāma jino uppajji lokanāyako.

Vào thuở bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, đấng Chiến Thắng, vị Lãnh Đạo Thế Gian tên là Dīpaṅkara đã hiện khởi.

 

1030. Dīpaṅkaro mahāvīro viyākāsi vināyako,
sumedhaṃ ca sumittaṃ ca samānasukhadukkhataṃ.

Đấng Đại Hùng, bậc Hướng Đạo Dīpaṅkara đã chú nguyện Sumedha và Sumittā là có trạng thái an lạc và khổ đau giống như nhau.

 

1031. Sadevakaṃ ca passantā vicarantā sadevakaṃ,
tesaṃ pakittane amhe upagamma samāgamaṃ.

Trong lúc cùng với chư thiên nhìn thấy và trong lúc đi đó đây cùng với chư thiên, chúng con đã đi đến nơi tụ hội vào dịp tuyên dương của hai người ấy.

 

1032. Amhaṃ sabbapati hohi anāgatasamāgame,
sabbāva tuyhaṃ bhariyā manāpā piyavādikā.

Trong lần tụ hội ở ngày vị lai, xin ngài hãy là chồng của tất cả chúng tôi. Hết thảy tất cả sẽ là những người vợ vui vẻ, có lời nói đáng yêu của ngài.”

 

1033. Dānasīlamayaṃ sabbaṃ bhāvanā ca subhāvitā,
dīgharattaṃ ca no sabbaṃ pariccattaṃ mahāmune.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, tất cả chúng con có bố thí với trì giới, và tham thiền đã khéo được tu tập. Và tất cả đã được chúng con buông bỏ từ lâu.

 

1034. Gandhaṃ vilepanaṃ mālaṃ dīpaṃ ca ratanāmayaṃ,
yaṃ kiñci patthitaṃ sabbaṃ pariccattaṃ mahāmune.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, bất cứ điều gì đã được ao ước (như là) hương thơm, vật thoa, tràng hoa, đèn, vật làm bằng châu báu, tất cả đều được buông bỏ.

 

1035. Aññaṃ cāpi kataṃ kammaṃ paribhogaṃ ca mānusaṃ,
dīgharattaṃ hi no sabbaṃ pariccattaṃ mahāmune.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, và luôn cả nghiệp nào khác đã được thực hiện cũng như sự thụ hưởng thuộc về nhân loại, tất cả đã được chúng con buông bỏ lâu lắm rồi.”

 

1036. Anekajātisaṃsāraṃ bahuṃ puññaṃ hi no kataṃ,
issaramanubhotvāna saṃsaritvā bhavābhave.

Trong khi luân hồi nhiều kiếp sống, chúng con đã làm được nhiều phước báu. Chúng con đã thọ hưởng quyền thế và đã luân hồi cõi này cõi khác.

 

1037. Pacchimabhave sampatte sakyaputtanivesane,
nānākulūpapannāyo accharā kāmavaṇṇinī.

Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng ở trong cung của người con trai dòng Sakya, chúng con đã được sanh ra trong nhiều gia tộc khác nhau, là những mỹ nhân có ái dục và sắc đẹp.

 

1038. Lābhaggena yasaṃ pattā pūjitā sabbasakkatā,
lābhiyo annapānānaṃ sadā sammānitā mayaṃ.

Chúng con đã đạt đến danh vọng cùng với lợi lộc tột cùng, được tôn vinh, được tất cả tôn trọng, luôn luôn được cung cấp các lợi lộc về cơm ăn nước uống.

 

1039. Agāraṃ pajahitvāna pabbajitvānagāriyaṃ,
aḍḍhamāse asampatte sabbā pattāmha nibbutiṃ.

Sau khi từ bỏ gia đình, chúng con đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Khi chưa đạt đến nửa tháng, tất cả chúng con đã đạt đến Niết Bàn.

 

1040. Lābhiyo annapānānaṃ vatthasenāsanāni ca,
upenti paccayā sabbe sadā sakkatapūjitā.

Nhiều người đem lại mọi thứ lợi lộc về cơm ăn nước uống, y phục và chỗ nằm ngồi. Chúng con luôn luôn được tôn kính cúng dường.

 

1041. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāma anāsavā.

Các phiền não của chúng con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là những con voi cái (đã được cởi trói), chúng con sống không còn lậu hoặc.

 

1042. Svāgataṃ vata no āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, chúng con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

1043. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Chúng con đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; chúng con đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Yasodharāpamukhāni dasabhikkhunīsahassāni bhagavato sammukhā imā gāthāyo abhāsitthāti.
Mười ngàn vị tỳ khưu ni đứng đầu là Yasodharā trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 

Dasabhikkhunīsahassāpadānaṃ navamaṃ.

Ký sự về mười ngàn vị tỳ khưu ni là phần thứ chín.

--ooOoo--

30. Aṭṭhārasabhikkhunīsahassāpadānaṃ

30. Ký Sự về 18.000 vị Tỳ Khưu Ni:

 

1044. Aṭṭhārasasahassāni bhikkhunī sakyasambhavā,
yasodharāpamukhāni sambuddhaṃ upasaṅkamuṃ.

Mười tám ngàn vị tỳ khưu ni xuất thân dòng Sakya đứng đầu là Yasodharā đã đi đến đấng Toàn Giác.

 

1045. Aṭṭhārasasahassāni sabbā honti mahiddhikā,
vandantī munino pāde ārocenti yathābalaṃ.

Tất cả mười tám vị ni đều có đại thần lực. Trong khi đảnh lễ ở bàn chân của bậc Hiền Triết, các vị trình rõ đúng theo năng lực.

 

1046. Jāti khīṇā jarā vyādhi maranaṃ ca mahāmuni,
anāsavaṃ padaṃ santaṃ amataṃ yāma nāyaka.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, sự sanh, sự già, sự bệnh, và sự chết đã được cạn kiệt. Bạch đấng Lãnh Đạo, chúng con đã đi đến vị thế an tịnh, bất tử, không còn lậu hoặc.

 

1047. Khalitaṃ ce pure atthi sabbāsampi mahāmuni,
aparādhamajānantī khama amhaṃ vināyaka.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, nếu có điều sai trái gì trước đây của tất cả chúng con vì không biết là lỗi lầm, bạch đấng Hướng Đạo xin Ngài hãy tha thứ cho chúng con.”

 

1048. “Iddhiṃ cāpi nidassetha mama sāsanakārikā,
parisānaṃ ca sabbāsaṃ kaṅkhaṃ chindatha yāvatā.”

Là những người thực hành theo Giáo Pháp của Ta, các nàng cũng nên thị hiện thần thông. Và hãy chặt đứt sự nghi ngờ đã có cho tất cả các chúng.”

 

1049. Yasodharī mahāvīra manāpā piyadassanā,
sabbā tuyhaṃ mahāvīra agārasmiṃ pajāpatī.

Bạch đấng Đại Hùng, là những vị ni danh tiếng, vui vẻ, có dáng vóc đáng yêu, bạch đấng Đại Hùng, tất cả là vợ của Ngài lúc còn tại gia.

 

1050. Thīnaṃ satasahassānaṃ navutīnaṃ chaḷuttari,
agāre te mayaṃ vīra pāmokkhā sabba-issarā.

Bạch đấng Anh Hùng, trong số một trăm chín mươi sáu ngàn phụ nữ ở nhà của Ngài, chúng con là những vị đứng đầu, là những người chủ quản tất cả.

 

1051. Rūpācāraguṇūpetā yobbanaṭṭhā piyaṃvadā,
sabbāyo apacāyanti devatā viya mānusā.

Là những người có được sắc đẹp, tánh tình, và đức hạnh, ở vào tuổi trẻ, có lời nói đáng yêu, tất cả chư thiên cũng như loài người đều quý trọng (chúng con).

 

1052. Aṭṭhārasasahassāni sabbā sākiyasambhavā,
yasodharā sahassāni pāmokkhā issarā tadā.

Khi ấy, tất cả mười tám ngàn vị ni đều xuất thân dòng Sakya, một ngàn vị ni có danh tiếng là những vị đứng đầu, là những người chủ quản.

 

1053. Kāmadhātumatikkantā saṇṭhitā rūpadhātuyā,
rūpena sadisā natthi sahassānaṃ mahāmuni.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, (các cô ấy) đã vượt qua lãnh vực của dục tình, đã được an trú vào lãnh vực của sắc đẹp. Không có gì tương đương với sắc đẹp của một ngàn cô ấy.

 

1054. Sambuddhaṃ abhivādetvā iddhiṃ dassesu satthuno,
nekā nānāvidhākārā mahā-iddhipi dassayuṃ.

Sau khi đảnh lễ bậc Toàn Giác, các vị ni đã phô bày thần thông đến bậc Đạo Sư. Các vị ni cũng đã thị hiện đại thần lực có nhiều hình thức khác loại.

 

1055. Cakkavāḷasamaṃ kāyaṃ sīsaṃ uttarato kuru,
ubho pakkhā duve dīpā jambudīpaṃ sarīrato.

(Các vị ni đã thị hiện) cơ thể tương đương với bầu vũ trụ, đầu là (đảo) Kuru ở về phía bắc, hai cánh là hai hòn đảo, thân mình là đảo Jambu, ...

 

1056. Dakkhiṇaṃ ca saraṃ piñjaṃ nānāsākhā tu pattakā,
candasūravisālakkhā merupabbatato sikhā.

... và đuôi công là cái hồ ở phía nam nhưng các lông chim là các cành lá khác nhau, mặt trăng và mặt trời là cặp mắt to, núi Meru là chóp đỉnh, ...

 

1057. Cakkavāḷagirituṇḍā jamburukkhaṃ samūlakaṃ,
vījamānā upagantvā vandanti lokanāyakaṃ.

...ngọn núi của bầu vũ trụ là mỏ chim. Trong lúc phe phẩy cây Jambu cùng với cội rễ (làm cây quạt), vị ni đã đi đến và đảnh lễ đấng Lãnh Đạo Thế Gian.

 

1058. Hatthivaṇṇaṃ tathevassaṃ pabbataṃ jaladhiṃ tathā,
candaṃ ca suriyaṃ meruṃ sakkavaṇṇaṃ ca dassayuṃ.

Tương tợ y như thế, các vị ni đã thị hiện hình dáng con voi, con ngựa, ngọn núi, và biển cả, rồi mặt trăng, mặt trời, núi Meru, và vóc dáng của vị trời Sakka.

 

1059. Yasodharā mayaṃ vīra pāde vandāma cakkhuma,
tava vīra pabhāvena nipphannā naranāyaka.

Bạch vị Anh Hùng, bạch đấng Hữu Nhãn, chúng con là các vị Yasodharā xin đảnh lễ ở bàn chân (Ngài). Bạch vị Anh Hùng, bạch đấng Lãnh Đạo của nhân loại, chúng con đã được hoàn thành nhờ vào quyền năng của Ngài

 

1060. Iddhīsu ca vasī homa dibbāya sotadhātuyā,
cetopariyañāṇassa vasī homa mahāmune.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, chúng con đã có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, chúng con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.

 

1061. Pubbe nivāsaṃ jānāma dibbacakkhu visodhitaṃ,
sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo.

Chúng con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.

 

1062. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāne tatheva ca,
ñāṇaṃ amhaṃ mahāvīra uppannaṃ tava santike.

Bạch đấng Đại Hùng, trí của chúng con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.

 

1063. Pubbānaṃ lokanāthānaṃ saṅgamaṃ no nidassitaṃ,
adhikārā bahū amhaṃ tumhatthāya mahāmune.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, sự hội tụ của các vị Lãnh Đạo Thế Gian trước đây, đã được chúng con nhìn thấy rõ. Có nhiều hành động hướng thượng của chúng con là nhằm mục đích về Ngài.

 

1064. Yaṃ amhaṃ purimaṃ kammaṃ kusalaṃ sarase mune,
tumhatthāya mahāvīra puññānupacitāni no.

Bạch bậc Hiền Triết, xin Ngài nhớ lại thiện nghiệp trước đây của chúng con. Bạch đấng Đại Hùng, phước báu đã được tích lũy bởi chúng con là nhằm mục đích về Ngài.

 

1065. Abhabbaṭṭhāne vajjetvā vārayimha anācaraṃ,
tuyhatthāya mahāvīra cattāni jīvitāni no. 

Bạch đấng Đại Hùng, sau khi đã tránh xa những nơi không thích hợp và đã ngăn trừ điều không giới hạnh, mạng sống đã được chúng con hy sinh là nhằm mục đích về Ngài.

 

1066. Nekakoṭisahassānaṃ bhariyatthāya’dāsi no,
na tattha vimanā homa tuyhatthāya mahāmune.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí chúng con nhằm mục đích làm vợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Chúng con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.

 

1067. Nekakoṭisahassānaṃ upakārāya ’dāsi no,
na tattha vimanā homa tuyhatthāya mahāmune.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí chúng con vì sự hỗ trợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Chúng con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.

 

1068. Nekakoṭisahassānaṃ bhojanatthāya ’dāsi no,
na tattha vimanā homa tuyhatthāya mahāmune.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí chúng con nhằm mục đích vật thực (cho kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Chúng con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.

 

1069. Nekakoṭisahassāni jīvitāni cajimha no,
“Bhayamokkhaṃ karissāma” jīvitāni cajimhase.

Chúng con đã từ bỏ nhiều ngàn koṭi mạng sống. Chúng con đã từ bỏ các mạng sống (nghĩ rằng): ‘Chúng ta sẽ thực hiện sự giải thoát khỏi nỗi sợ hãi.’

 

1070. Aṅgagate alaṅkāre vatthe nānāvidhe bahū,
itthibhaṇḍe na gūhāma tuyhatthāya mahāmune.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, chúng con không cất giấu các đồ trang sức được dùng cho phụ nữ, nhiều vải vóc các loại, các vật dụng của phụ nữ là nhằm mục đích về Ngài.

 

1071. Dhanadhaññapariccāgaṃ gāmāni nigamāni ca,
khettā puttā ca dhītā ca pariccattā mahāmune.

Chúng con đã dứt bỏ tài sản, lúa gạo, các ngôi làng, và các phố chợ. Bạch đấng Đại Hiền Triết, các ruộng vườn, những người con trai, và con gái đã được dứt bỏ.

 

1072. Hatthī assā gavā cāpi dāsiyo paricārikā,
tuyhatthāya mahāvīra pariccattā asaṅkhiyā.

Bạch đấng Đại Hùng, không thể đếm được những con voi, ngựa, trâu bò, luôn cả các nữ tỳ và tớ gái đã được dứt bỏ là nhằm mục đích về Ngài.

 

1073. Yaṃ amhe paṭimantesi dānaṃ dassāma yācake,
vimanaṃ no na passāma dadato dānamuttamaṃ.

Về việc Ngài bảo chúng con rằng: ‘Ta sẽ cho vật thí đến người hành khất,’ chúng con không nhìn thấy sự bất bình của chúng con trong khi Ngài bố thí vật thí tối thượng.

 

1074. Nānāvidhaṃ bahuṃ dukkhaṃ saṃsāre ca bahubbidhe,
tuyhatthāya mahāvīra anubhuttaṃ asaṅkhiyaṃ.

Bạch đấng Đại Hùng,chúng con đã trải qua nhiều khổ đau khác loại không thể đếm được, và ở sự luân hồi trong nhiều hình thức là nhằm mục đích về Ngài.

 

1075. Sukhappattā na modāma na ca dukkhesu dummanā,
sabbattha tulitā homa tuyhatthāya mahāmune.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, đạt được sung sướng chúng con không vui thích và không có tâm bực bội trong những khổ đau, chúng con được quân bình trong mọi trường hợp là nhằm mục đích về Ngài.

 

1076. Anumaggena sambuddho yaṃ dhammaṃ abhinīhari,
anubhutvā sukhaṃ dukkhaṃ patto bodhiṃ mahāmuni.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, theo con đường bậc Toàn Giác đã phát nguyện về pháp (giải thoát), Ngài đã trải qua lạc khổ và đã đạt đến sự giác ngộ.

 

1077. Brahmadevaṃ ca sambuddhaṃ gotamaṃ lokanāyakaṃ,
aññesaṃ lokanāthānaṃ saṅgamā tehi no bahū.

Vị trời của Phạm Thiên, bậc Toàn Giác, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Gotama, đối với các đấng Hộ Trì Thế Gian khác, chúng con đã có nhiều lần gặp gỡ với các vị ấy.

 

1078. Adhikārā bahū amhaṃ tuyhatthāya mahāmune,
gavesato buddhadhamme mayaṃ te paricārikā.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, nhiều hành động hướng thượng của chúng con là nhằm mục đích về Ngài. Chúng con là những nữ tỳ của Ngài trong lúc Ngài tầm cầu Phật Pháp.

 

1079. Kappe ca satasahasse caturo ca asaṅkhiye,
dīpaṅkaro mahāvīro uppajji lokanāyako.

Vào thuở bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, bậc Đại Anh Hùng, vị Lãnh Đạo Thế Gian Dīpaṅkara đã hiện khởi.

 

1080. Paccantadesavisaye nimantetvā tathāgataṃ,
tassa āgamanaṃ maggaṃ sodhenti tuṭṭhamānasā.

Sau khi đã thỉnh mời đức Như Lai, những người ở khu vực vùng biên địa làm sạch sẽ con đường đi đến của Ngài với tâm hoan hỷ.

 

1081. Tena kālena so āsi sumedho nāma brāhmaṇo,
maggaṃ ca paṭiyādesi āyataṃ sabbadassino. 

Vào thời điểm ấy, vị ấy đã là người Bà-la-môn tên Sumedha và đã sửa soạn con đường của đấng Toàn Tri đang đi đến.

 

1082. Tena kālena āsimha sabbā brāhmaṇasambhavā,
thalūdajāni pupphāni āharimha samāgamaṃ.

Vào thời điểm ấy, tất cả chúng con đã là xuất thân Bà-la-môn. Chúng con đã mang đến cuộc tụ hội những đóa hoa mọc trên đất liền và dưới nước.

 

1083. Tasmiṃ so samaye buddho dīpaṅkaro mahāyaso,
viyākāsi mahāvīro isimuggatamānasaṃ.

Vào lúc ấy, đức Phật Dīpaṅkara, bậc Đại Hùng có danh tiếng vĩ đại ấy đã chú nguyện cho vị ẩn sĩ có tâm ý hướng thượng.

 

1084. Calatī ravatī paṭhavī saṅkampati sadevakaṃ,
tassa kammaṃ pakittente isimuggatamānaso.

Trong khi tuyên dương hành động của vị ẩn sĩ có tâm ý hướng thượng ấy, quả đất lay chuyển, gào thét, rung động cùng với thiên giới.

 

1085. Devakaññā manussā ca mayaṃ cāpi sadevakā,
nānāpūjanīyaṃ bhaṇḍaṃ pūjayitvāna patthayuṃ.

Các tiên nữ và loài người, luôn cả chúng con cùng với chư thiên đã dâng lên phẩm vật cúng dường khác nhau rồi đã ước nguyện.

 

1086. Tesaṃ buddho viyākāsi jotidīpasanāmako,
“Ajja ye patthitā atthi te bhavissanti sammukhā.”

Đức Phật tên Jotidīpa (Dīpaṅkara) đã chú nguyện cho bọn họ rằng: “Những điều đã được ước nguyện vào ngày hôm nay sẽ trở thành hiện thực.”

 

1087. Aparimeyye ito kappe yaṃ no buddho viyākari,
taṃ vācamanumodantī evaṅkārī ahumha no.

Ấy là điều đức Phật đã chú nguyện cho chúng con trước đây vô lượng kiếp. Trong khi tùy hỷ lời nói ấy, chúng con đã là những người có hành động như vậy.

 

1088. Tassa kammassa sukatassa tattha cittaṃ pasādiya,
devamānusakaṃ yoniṃ anubhotvā asaṅkhiyaṃ.

Tại nơi ấy, chúng con đã có tâm tịnh tín đối với việc làm đã được thực hiện tốt đẹp ấy. Chúng con đã sanh vào bản thể trời và người với số lần không thể đếm được.

 

1089. Sukhadukkhe ’nubhotvāna devesu mānusesu ca,
pacchimabhave sampatte jātā ’mha sākiye kule.

Chúng con đã trải qua lạc và khổ ở các cõi trời và loài người. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, chúng con đã sanh ra trong gia tộc Sakya.

 

1090. Rūpavatī bhogavatī yasasīlavatī tato,
sabbaṅgasampadā homa kulesu atisakkatā.

Chúng con có sắc đẹp, có của cải, do đó có danh vọng và giới hạnh. Chúng con có sự thành tựu vẹn toàn thân thể, được vô cùng kính trọng ở các gia đình.

 

1091. Lābhaṃ silokaṃ sakkāraṃ lokadhammasamāgamaṃ,
cittaṃ ca dukkhitaṃ natthi vasāma akutobhayā.

Lợi lộc, danh vọng, cung kính, sự tổng hợp các pháp thế gian, và tâm bị khổ não là không có, chúng con sống không sợ hãi.

 

1092. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā rañño antepure tadā,
khattiyānaṃ pure vīro upakāraṃ ca niddisi.

Khi ấy, điều này đã được đức Thế Tôn nói ra ở trong kinh thành của đức vua (Suddhodana). Và đấng Anh Hùng đã chỉ ra việc hộ độ trước đây của các vị Sát-đế-lỵ:

 

1093. Upakārā ca yā nārī yā ca nārī sukhe dukhe,
atthakkhāyī ca yā nārī yā ca nārī ’nukampikā. 

Người nữ nào là hữu ân, người nữ nào cùng chung vui sướng khổ đau, người nữ nào nói lời hữu ích, và người nữ nào có lòng thương tưởng, ...

 

1094. Dhammaṃ care sucaritaṃ na naṃ duccaritaṃ care,
dhammacārī sukhaṃ seti asmiṃ loke paramhi ca.

... hãy thực hành pháp thiện hạnh, chớ thực hành ác hạnh ấy. Người thực hành Giáo Pháp thọ hưởng an lạc trong đời này và trong đời sau.”

 

1095. Agāraṃ vijahitvāna pabbajimha ’nagāriyaṃ,
aḍḍhamāse asampatte catusaccaṃ phusimha no.

Sau khi từ bỏ gia đình, chúng con đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Khi chưa đạt đến nửa tháng, chúng con đã chạm được bốn Sự Thật.

 

1096. Cīvaraṃ piṇḍapātaṃ ca paccayaṃ sayanāsanaṃ,
upanenti bahuṃ amhe sāgarasseva ūmiyo.

Nhiều người đem đến cho chúng con y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi tợ như các làn sóng của biển cả.

 

1097. Kilesā jhāpitā amhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāma anāsavā.

Các phiền não của chúng con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), chúng con sống không còn lậu hoặc.

 

1098. Svāgataṃ vata no āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, chúng con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

1099. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Chúng con đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; chúng con đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

1100. Evaṃ bahuvidhaṃ dukkhaṃ sampattī ca bahubbidhā,
visuddhabhāvaṃ sampattā labhāma sabbasampadā.

Như vậy là có khổ đau đa dạng và thành công nhiều hình thức. Được đạt đến trạng thái thanh tịnh, chúng con nhận lãnh mọi sự thành tựu.

 

1101. Yā dadanti sakattānaṃ puññatthāya mahesino,
sahāyasampadā honti nibbānapadamasaṅkhataṃ.

Những nàng nào bố thí chính bản thân mình vì mục đích phước báu của vị đại ẩn sĩ là có sự thành tựu về bạn hữu. Vị thế Niết Bàn là không còn tạo tác.

 

1102. Parikkhīṇaṃ atītaṃ ca paccuppannaṃ anāgataṃ,
sabbaṃ kammampi no khīṇaṃ pāde vandāma cakkhuma.

Quá khứ, hiện tại, và vị lai đã được cạn kiệt, tất cả nghiệp của chúng con đã được cạn kiệt. Bạch đấng Hữu Nhãn, chúng con xin đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).”

 

1103. Nibbānāya vajantīnaṃ kiṃ vo vakkhāma uttariṃ,
santasaṅkhatadosaṃ hi pappotha amataṃ padaṃ.

Ta sẽ nói điều gì hơn nữa về các nàng là những người đang tiến đến Niết Bàn? Bởi vì các nàng đạt được vị thế Bất Tử, (là nơi) sự tạo tác và điều sai trái đã được tịnh lặng.”

 

Itthaṃ sudaṃ Yasodharāpamukhāni aṭṭhārasabhikkhunīsahassāni bhagavato sammukhā imā gāthāyo abhāsitthāti.
Mười tám ngàn vị tỳ khưu ni đứng đầu là Yasodharā trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 

Yasodharāpamukha-aṭṭhārasabhikukhunisahassāpadānaṃ dasamaṃ. 

Ký sự về mười tám ngàn vị tỳ khưu ni đứng đầu là Yasodharā là phần thứ mười.

 

Kuṇḍalakesivaggo tatiyo.

Phẩm Kuṇḍalakesī là phẩm thứ ba.

--ooOoo--

Tatthuddānaṃ:

Tóm lược của phẩm này:

 

Kuṇḍalā gotamī ceva dhammadinnā ca sakulā,
varanandā ca soṇā ca kāpilānī yasodharā.
Dasasahassabhikkhunī aṭṭhārasasahassakā,
gāthāsatāni cattāri cha ca sattati meva ca.

Vị ni Kuṇḍalā, Kisāgotamī, luôn cả Dhammadinnā, Sakulā, Nandā cao quý, Soṇā, Bhaddākāpilānī, Yasodharā, mười ngàn tỳ khưu ni, và mười tám ngàn vị ni, là bốn trăm bảy mươi sáu câu kệ cả thảy.

--ooOoo--


[1] Sau khi đã được nhổ sạch, những sợi tóc mọc lại đã bị xoắn nên có biệt hiệu là Kuṇḍalakesā (tóc xoắn).

[2] Kinh Pháp Cú, câu 113.

[3] Xem thêm Kinh Cūlavedallasuttaṃ - Tiểu Kinh Phương Quảng, Trung Bộ I.

[4] Kinh Pháp Cú, câu 112.

[5] Các câu kệ từ  952 - 957 không thấy ở Tạng Thái và Tạng Anh.

[6] Jambudīpa: bán đảo Ấn Độ.

[7] Một koṭi là mười triệu.

[8] Kế tiếp có hai mươi câu kệ được thấy ở Tạng Thái, Miến, Anh, nhưng không thấy ở Tạng Sri Lanka. Vì nội dung không có gì đặc sắc nên không thêm vào.

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03 | 04

 

Chân thành cám ơn Tỳ khưu Indacanda đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 09-2007)

[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 02-10-2007