BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times font


Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya

117. Ðại kinh Bốn mươi
(Mahàcattàrìsaka sutta)


Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Bạch Thế Tôn". -- "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông Thánh chánh định cùng với các cận duyên và các tư trợ. Hãy lắng tai nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng". -- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

-- Này các Tỷ-kheo, thế nào là Thánh chánh định với các cận duyên và các tư trợ? Chính là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm. Này các Tỷ-kheo, phàm có nhất tâm nào (ekaggata) được tư trợ với bảy chi phần này, này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Thánh chánh định cùng với các cận duyên và các tư trợ.

(Chánh kiến)

Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là chánh kiến đi hàng đầu? Tuệ tri tà kiến là tà kiến, tuệ tri chánh kiến là chánh kiến. Như vậy là chánh kiến của vị ấy.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà kiến? Không có bố thí, không có cúng dường, không có tế tự, không có quả báo các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh; ở đời không có các vị Sa-môn, Bà-la-môn, chánh hướng, chánh hạnh, sau khi với thượng trí tự mình chứng đạt lại tuyên bố lên. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là tà kiến.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh kiến? Chánh kiến, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại. Này các Tỷ-kheo, có loại chánh kiến hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y (upadhivepakka); có loại chánh kiến, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi (magganga).

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh kiến hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y? Có bố thí, có cúng dường, có tế tự, có quả báo các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời khác, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh; ở đời có các vị Sa-môn, Bà-la-môn, chánh hướng, chánh hạnh, sau khi với thượng trí tự mình chứng đạt đời này và đời khác lại tuyên bố lên. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là chánh kiến hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh kiến thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi? Phàm cái gì, này các Tỷ-kheo, thuộc trí tuệ, tuệ căn, tuệ lực, trạch pháp giác chi, chánh kiến, đạo chi của một vị tu tập Thánh đạo, thành thục trong Thánh đạo, có vô lậu tâm, có Thánh tâm. Chánh kiến như vậy, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.

Ai tinh tấn đoạn trừ tà kiến, thành tựu chánh kiến; như vậy là chánh tinh tấn của vị ấy. Ai chánh niệm đoạn trừ tà kiến, chánh niệm đạt được và an trú chánh kiến; như vậy là chánh niệm của vị ấy. Như vậy ba pháp này chạy theo, chạy vòng theo chánh kiến, tức là chánh kiến, chánh tinh tấn, chánh niệm.

(Chánh tư duy)

Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là chánh kiến đi hàng đầu? Tuệ tri tà tư duy là tà tư duy, tuệ tri chánh tư duy là chánh tư duy, như vậy là chánh kiến của các vị ấy.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà tư duy? Dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy, này các Tỷ-kheo, như vậy là tà tư duy.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy? Chánh tư duy, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại: có loại chánh tư duy, này các Tỷ-kheo, hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y; có loại chánh tư duy, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y? Ly dục tư duy, vô sân tư duy, bất hại tư duy, như vậy, này các Tỷ-kheo là chánh tư duy, hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi? Phàm cái gì này các Tỷ-kheo thuộc suy tư, tầm cầu, tư duy, một ngữ hành do sự hoàn toàn chú tâm chuyên tâm của một vị tu tập Thánh đạo, thành thục trong Thánh đạo, có vô lậu tâm, có Thánh tâm; chánh tư duy như vậy, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.

Ai tinh tấn đoạn trừ tà tư duy, thành tựu chánh tư duy, như vậy là chánh tinh tấn của vị ấy. Ai chánh niệm đoạn trừ tà tư duy, chánh niệm đạt được và an trú chánh tư duy, như vậy là chánh niệm của vị ấy. Như vậy ba pháp này chạy theo, chạy vòng theo chánh tư duy, tức là chánh kiến, chánh tinh tấn, chánh niệm.

(Chánh ngữ)

Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu? Tuệ tri tà ngữ là tà ngữ, tuệ tri chánh ngữ là chánh ngữ; như vậy là chánh kiến của vị ấy.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà ngữ? Vọng ngữ, nói hai lưỡi, ác khẩu, nói lời phù phiếm; như vậy, này các Tỷ-kheo, là tà ngữ.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh ngữ? Chánh ngữ, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại: có loại chánh ngữ, này các Tỷ-kheo, hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y; có loại chánh ngữ, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh ngữ hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y? Viễn ly vọng ngữ, viễn ly nói hai lưỡi, viễn ly ác khẩu, viễn ly phù phiếm ngữ; như vậy, này các Tỷ-kheo, là chánh ngữ hữu lậu thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh ngữ thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi? Cái gì, này các Tỷ-kheo, thuộc về từ bỏ, từ đoạn, từ khước, viễn ly bốn ngữ ác hành, đối với một vị tu tập Thánh đạo, thuần thục trong Thánh đạo, có vô lậu tâm, có Hiền Thánh tâm; như vậy, này các Tỷ-kheo là chánh ngữ thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.

Ai tinh tấn đoạn trừ tà ngữ, thành tựu chánh ngữ; như vậy là chánh tinh tấn của vị ấy. Ai chánh niệm đoạn trừ tà ngữ, chánh niệm đạt được và an trú chánh ngữ; như vậy là chánh niệm của vị ấy. Như vậy, ba pháp này chạy theo, chạy vòng theo chánh ngữ, tức là chánh kiến, chánh tinh tấn, chánh niệm.

(Chánh nghiệp)

Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là chánh kiến đi hàng đầu? Tuệ tri tà nghiệp là tà nghiệp, tuệ tri chánh nghiệp là chánh nghiệp; như vậy là chánh kiến của vị ấy.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà nghiệp? Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục; như vậy, này các Tỷ-kheo, là tà nghiệp.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh nghiệp? Chánh nghiệp, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại: Có loại chánh nghiệp, này các Tỷ-kheo, hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y; có loại chánh nghiệp, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh nghiệp thuộc hữu lậu thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y? Viễn ly sát sanh, viễn ly lấy của không cho, viễn ly tà hạnh trong các dục; như vậy, này các Tỷ-kheo, là chánh nghiệp, thuộc hữu lậu thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh nghiệp thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi? Cái gì, này các Tỷ-kheo, thuộc về từ bỏ, từ đoạn, từ khước, viễn ly ba thân ác hành đối với một vị tu tập Thánh đạo, thành thục trong Thánh đạo, có vô lậu tâm, có Hiền Thánh tâm; như vậy, này các Tỷ-kheo, là chánh nghiệp thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.

Ai tinh tấn đoạn trừ tà nghiệp, thành tựu chánh nghiệp; như vậy là chánh tinh tấn của vị ấy. Ai chánh niệm đoạn trừ tà nghiệp, chánh niệm đạt được và an trú chánh nghiệp; như vậy là chánh niệm của vị ấy. Như vậy ba pháp này chạy theo, chạy vòng theo chánh nghiệp, tức là chánh kiến, chánh tinh tấn, chánh niệm.

(Chánh mạng)

Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là chánh kiến đi hàng đầu? Tuệ tri được tà mạng là tà mạng, tuệ tri được chánh mạng là chánh mạng; như vậy là chánh kiến của vị ấy.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà mạng? Lừa đảo, nói lời mê ly, hiện tướng, gian trá, lấy lợi cầu lợi; như vậy, này các Tỷ-kheo, là tà mạng.

Và thế nào, này các Tỷ-kheo, là chánh mạng? Chánh mạng, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại: có loại chánh mạng, này các Tỷ-kheo, hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y; có loại chánh mạng, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.

Và thế nào, này các Tỷ-kheo là chánh mạng hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử bỏ tà mạng, nuôi sống với chánh mạng; như vậy, này các Tỷ-kheo là chánh mạng hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh mạng thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi? Cái gì, này các Tỷ-kheo thuộc về từ bỏ, từ đoạn, từ khước, viễn ly tà mạng đối với một vị tu tập Thánh đạo, thuần thục trong Thánh đạo. Có vô lậu tâm, có Hiền Thánh tâm; như vậy, này các Tỷ-kheo, là chánh mạng thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.

Ai tinh tấn đoạn trừ tà mạng, thành tựu chánh mạng; như vậy là chánh tinh tấn của vị ấy. Ai chánh niệm đoạn trừ tà mạng, chánh niệm đạt được và an trú chánh mạng, như vậy là chánh niệm của vị ấy. Như vậy, ba pháp này chạy theo, chạy vòng theo chánh mạng, tức là chánh kiến, chánh tinh tấn, chánh niệm.

(Ðại pháp môn Bốn mươi)

Ở đây, này các Tỷ-kheo chánh kiến đi hàng đầu. Và thế nào, này các Tỷ-kheo, là chánh kiến đi hàng đầu? Chánh tư duy, này các Tỷ-kheo, do chánh kiến, được khởi lên. Chánh ngữ do chánh tư duy được khởi lên. Chánh nghiệp do chánh ngữ được khởi lên. Chánh mạng do chánh nghiệp được khởi lên. Chánh tinh tấn do chánh mạng được khởi lên. Chánh niệm do chánh tinh tấn được khởi lên. Chánh định do chánh niệm được khởi lên. Chánh trí do chánh định được khởi lên. Chánh giải thoát do chánh trí được khởi lên. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đạo lộ của vị hữu học gồm có tám chi phần, và đạo lộ của vị A-la-hán gồm có mười chi phần.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là chánh kiến đi hàng đầu? Tà kiến, này các Tỷ-kheo, do chánh kiến làm cho tiêu diệt. Và những ác bất thiện pháp được tà kiến duyên khởi, các pháp ấy bị tiêu diệt trong vị có chánh kiến. Và những thiện pháp được chánh kiến duyên khởi, các pháp ấy được tu tập và trở thành viên mãn.

Tà tư duy, này các Tỷ-kheo, do chánh tư duy làm cho tiêu diệt và những ác bất thiện pháp, được tà tư duy duyên khởi, các pháp ấy bị tiêu diệt trong người có chánh tư duy. Và những thiện pháp được chánh tư duy duyên khởi, các pháp ấy được phát triển trở thành viên mãn.

Tà ngữ, này các Tỷ-kheo, do chánh ngữ làm cho tiêu diệt và những ác bất thiện pháp được tà ngữ duyên khởi, các pháp ấy bị tiêu diệt trong người có chánh ngữ. Và những thiện pháp được chánh ngữ duyên khởi, các pháp ấy được tu tập và trở thành viên mãn.

Tà nghiệp, này các Tỷ-kheo, do chánh nghiệp làm cho tiêu diệt, và những ác bất thiện pháp được tà nghiệp duyên khởi, các pháp ấy bị tiêu diệt trong người có chánh nghiệp. Và những thiện pháp được chánh nghiệp duyên khởi, các pháp ấy được tu tập và trở thành viên mãn.

Tà mạng, này các Tỷ-kheo, do chánh mạng làm cho tiêu diệt. Và những ác bất thiện pháp được tà mạng duyên khởi, các pháp ấy được tiêu diệt trong người có chánh mạng. Và những thiện pháp được chánh mạng duyên khởi, các pháp ấy được tu tập và trở thành viên mãn.

Tà tinh tấn, này các Tỷ-kheo, do chánh tinh tấn làm cho tiêu diệt. Và những ác bất thiện pháp được tà tinh tấn duyên khởi, các pháp ấy được tiêu diệt trong người có chánh tinh tấn. Và những thiện pháp được khởi lên do duyên chánh tinh tấn, các pháp ấy được tu tập và trở thành viên mãn.

Tà niệm, này các Tỷ-kheo, do chánh niệm làm cho tiêu diệt. Và những ác bất thiện pháp được tà niệm duyên khởi, các pháp ấy được tiêu diệt trong người có chánh niệm. Và những thiện pháp được chánh niệm duyên khởi, các pháp ấy được tu tập và trở thành viên mãn.

Tà định, này các Tỷ-kheo do chánh định làm cho tiêu diệt. Và những ác bất thiện pháp được tà định duyên khởi, các pháp ấy được tiêu diệt trong người có chánh định. Và những thiện pháp được chánh định duyên khởi, các pháp ấy được tu tập và trở thành viên mãn.

Tà trí, này các Tỷ-kheo, do chánh trí làm cho tiêu diệt. Và những ác bất thiện pháp được tà trí duyên khởi, các pháp ấy được tiêu diệt trong người có chánh trí. Và những thiện pháp được chánh trí duyên khởi, các pháp ấy được phát triển và trở thành viên mãn.

Tà giải thoát, này các Tỷ-kheo, do chánh giải thoát làm cho tiêu diệt. Và những ác bất thiện pháp được tà giải thoát duyên khởi, các pháp ấy được tiêu diệt trong người có chánh giải thoát. Và các thiện pháp được chánh giải thoát duyên khởi, các pháp ấy được phát triển và trở thành viên mãn.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, có hai mươi thiện phần, hai mươi bất thiện phần. Ðại pháp môn Bốn mươi đã được chuyển vận không bị chận đứng lại bởi một Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm thiên hay một ai ở đời.

Nếu có Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng đại pháp môn Bốn mươi này đáng bị phê bình, đáng bị phỉ báng, thời ngay hiện tại, mười thuận thuyết tùy thuyết hợp pháp được nói lên để chỉ trích người ấy. Nếu Tôn giả chỉ trích chánh kiến, thời các Sa-môn có tà kiến, các Tôn giả ấy là những vị đáng được cúng dường, các Tôn giả ấy là những vị đáng được tán thán. Nếu Tôn giả chỉ trích chánh tư duy, thời các Sa-môn, Bà-la-môn có tà tư duy, các Tôn giả ấy là những vị đáng được cúng dường, các Tôn giả ấy là những vị đáng được tán thán. Nếu Tôn giả chỉ trích chánh ngữ... chánh nghiệp... chánh mạng... chánh tinh tấn... chánh niệm... chánh định... chánh trí... Nếu Tôn giả chỉ trích chánh giải thoát, thời các Sa-môn, Bà-la-môn có tà giải thoát, các Tôn giả ấy là những vị đáng cúng dường, các Tôn giả ấy là những vị đáng được tán thán. Nếu có Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng đại pháp môn Bốn mươi này đáng bị phê bình, đáng bị phỉ báng, thời ngay hiện tại, mười thuận thuyết hợp pháp được nói lên để chỉ trích người ấy.

Này các Tỷ-kheo, cho đến các dân chúng ở Ukkala và dân chúng Vassa, dân chúng Bhanna theo vô nhân luận, theo vô tác luận, theo hư vô luận, những vị ấy cũng không nghĩ rằng đại pháp môn Bốn mươi đáng chỉ trích, đáng bị phỉ báng. Vì sao vậy? Vì sợ quở trách, phẫn nộ, công kích.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt


Chân thành cám ơn anh HDC và nhóm Phật tử VH đã có thiện tâm gửi tặng ấn bản điện tử.
(Bình Anson hiệu đính, dựa theo bản Anh ngữ "The Middle Length Discourses of the Buddha", Tỳ kheo Nanamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, 1995).
14-07-2004


Majjhima Nikaya 117

Mahacattarisaka Sutta
The Great Forty

translated by Bhikkhu Thanissaro


I have heard that on one occasion the Blessed One was staying at Savatthi, in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. There he addressed the monks: "Monks!"

"Yes, lord," the monks replied.

The Blessed One said, "Monks, I will teach you noble right concentration with its supports and requisite conditions. Listen, and pay close attention. I will speak."

"Yes, lord," the monks replied.

The Blessed One said: "Now what, monks, is noble right concentration with its supports and requisite conditions? Any singleness of mind equipped with these seven factors -- right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, and right mindfulness -- is called noble right concentration with its supports and requisite conditions.

"[1] Of those, right view is the forerunner. And how is right view the forerunner? One discerns wrong view as wrong view, and right view as right view. This is one's right view. And what is wrong view? 'There is nothing given, nothing offered, nothing sacrificed. There is no fruit or result of good or bad actions. There is no this world, no next world, no mother, no father, no spontaneously reborn beings; no priests or contemplatives who, faring rightly and practicing rightly, proclaim this world and the next after having directly known and realized it for themselves.' This is wrong view.

"And what is right view? Right view, I tell you, is of two sorts: There is right view with fermentations [asava], siding with merit, resulting in the acquisitions [of becoming]; and there is noble right view, without fermentations, transcendent, a factor of the path.

"And what is the right view that has fermentations, sides with merit, and results in acquisitions? 'There is what is given, what is offered, what is sacrificed. There are fruits and results of good and bad actions. There is this world and the next world. There is mother and father. There are spontaneously reborn beings; there are priests and contemplatives who, faring rightly and practicing rightly, proclaim this world and the next after having directly known and realized it for themselves.' This is the right view that has fermentations, sides with merit, and results in acquisitions.

"And what is the right view that is without fermentations, transcendent, a factor of the path? The discernment, the faculty of discernment, the strength of discernment, analysis of qualities as a factor of Awakening, the path factor of right view in one developing the noble path whose mind is noble, whose mind is free from fermentations, who is fully possessed of the noble path. This is the right view that is without fermentations, transcendent, a factor of the path.

"One tries to abandon wrong view and to enter into right view: This is one's right effort. One is mindful to abandon wrong view and to enter and remain in right view: This is one's right mindfulness. Thus these three qualities -- right view, right effort, and right mindfulness -- run and circle around right view.

"[2] Of those, right view is the forerunner. And how is right view the forerunner? One discerns wrong resolve as wrong resolve, and right resolve as right resolve. And what is wrong resolve? Being resolved on sensuality, on ill will, on harmfulness. This is wrong resolve.

"And what is right resolve? Right resolve, I tell you, is of two sorts: There is right resolve with fermentations, siding with merit, resulting in the acquisitions [of becoming]; and there is noble right resolve, without fermentations, transcendent, a factor of the path.

"And what is the right resolve that has fermentations, sides with merit, and results in acquisitions? Being resolved on renunciation, on freedom from ill will, on harmlessness. This is the right resolve that has fermentations, sides with merit, and results in acquisitions.

"And what is the right resolve that is without fermentations, transcendent, a factor of the path? The thinking, directed thinking, resolve, mental absorption, mental fixity, focused awareness, and verbal fabrications in one developing the noble path whose mind is noble, whose mind is without fermentations, who is fully possessed of the noble path. This is the right resolve that is without fermentations, transcendent, a factor of the path.

"One tries to abandon wrong resolve and to enter into right resolve: This is one's right effort. One is mindful to abandon wrong resolve and to enter and remain in right resolve: This is one's right mindfulness. Thus these three qualities -- right view, right effort, and right mindfulness -- run and circle around right resolve.

"[3] Of those, right view is the forerunner. And how is right view the forerunner? One discerns wrong speech as wrong speech, and right speech as right speech. And what is wrong speech? Lying, divisive tale-bearing, abusive speech, and idle chatter. This is wrong speech.

"And what is right speech? Right speech, I tell you, is of two sorts: There is right speech with fermentations, siding with merit, resulting in the acquisitions [of becoming]; and there is noble right speech, without fermentations, transcendent, a factor of the path.

"And what is the right speech that has fermentations, sides with merit, and results in acquisitions? Abstaining from lying, from divisive tale-bearing, from abusive speech, and from idle chatter. This is the right speech that has fermentations, sides with merit, and results in acquisitions.

"And what is the right speech that is without fermentations, transcendent, a factor of the path? The abstaining, desisting, abstinence, avoidance of the four forms of verbal misconduct in one developing the noble path whose mind is noble, whose mind is without fermentations, who is fully possessed of the noble path. This is the right speech that is without fermentations, transcendent, a factor of the path.

"One tries to abandon wrong speech and to enter into right speech: This is one's right effort. One is mindful to abandon wrong speech and to enter and remain in right speech: This is one's right mindfulness. Thus these three qualities -- right view, right effort, and right mindfulness -- run and circle around right speech.

"[4] Of those, right view is the forerunner. And how is right view the forerunner? One discerns wrong action as wrong action, and right action as right action. And what is wrong action? Killing, taking what is not given, illicit sex. This is wrong action.

"And what is right action? Right action, I tell you, is of two sorts: There is right action with fermentations, siding with merit, resulting in the acquisitions [of becoming]; and there is noble right action, without fermentations, transcendent, a factor of the path.

"And what is the right action that has fermentations, sides with merit, and results in acquisitions? Abstaining from killing, from taking what is not given, and from illicit sex. This is the right action that has fermentations, sides with merit, and results in acquisitions.

"And what is the right action that is without fermentations, transcendent, a factor of the path? The abstaining, desisting, abstinence, avoidance of the three forms of bodily misconduct in one developing the noble path whose mind is noble, whose mind is without fermentations, who is fully possessed of the noble path. This is the right action that is without fermentations, transcendent, a factor of the path.

"One tries to abandon wrong action and to enter into right action: This is one's right effort. One is mindful to abandon wrong action and to enter and remain in right action: This is one's right mindfulness. Thus these three qualities -- right view, right effort, and right mindfulness -- run and circle around right action.

"[5] Of those, right view is the forerunner. And how is right view the forerunner? One discerns wrong livelihood as wrong livelihood, and right livelihood as right livelihood. And what is wrong livelihood? Scheming, persuading, hinting, belittling, and pursuing gain with gain. This is wrong livelihood.

"And what is right livelihood? Right livelihood, I tell you, is of two sorts: There is right livelihood with fermentations, siding with merit, resulting in the acquisitions [of becoming]; and there is noble right livelihood, without fermentations, transcendent, a factor of the path.

"And what is the right livelihood that has fermentations, sides with merit, and results in acquisitions? There is the case where a noble disciple abandons wrong livelihood and maintains his life with right livelihood. This is the right livelihood that has fermentations, sides with merit, and results in acquisitions.

"And what is the right livelihood that is without fermentations, transcendent, a factor of the path? The abstaining, desisting, abstinence, avoidance of wrong livelihood in one developing the noble path whose mind is noble, whose mind is without fermentations, who is fully possessed of the noble path. This is the right livelihood that is without fermentations, transcendent, a factor of the path.

"One tries to abandon wrong livelihood and to enter into right livelihood: This is one's right effort. One is mindful to abandon wrong livelihood and to enter and remain in right livelihood: This is one's right mindfulness. Thus these three qualities -- right view, right effort, and right mindfulness -- run and circle around right livelihood.

"Of those, right view is the forerunner. And how is right view the forerunner? In one of right view, right resolve comes into being. In one of right resolve, right speech comes into being. In one of right speech, right action...In one of right action, right livelihood...In one of right livelihood, right effort...In one of right effort, right mindfulness...In one of right mindfulness, right concentration...In one of right concentration, right knowledge...In one of right knowledge, right release comes into being. Thus the learner is endowed with eight factors, and the Arahant with ten.

"Of those, right view is the forerunner. And how is right view the forerunner? In one of right view, wrong view is abolished. The many evil, unskillful qualities that come into play with wrong view as their condition are also abolished, while the many skillful qualities that have right view as their condition go to the culmination of their development. In one of right resolve, wrong resolve is abolished...In one of right speech, wrong speech is abolished...In one of right action, wrong action is abolished...In one of right livelihood, wrong livelihood is abolished...In one of right effort, wrong effort is abolished...In one of right mindfulness, wrong mindfulness is abolished...In one of right concentration, wrong concentration is abolished...In one of right knowledge, wrong knowledge is abolished...In one of right release, wrong release is abolished. The many evil, unskillful qualities that come into play with wrong release as their condition are also abolished, while the many skillful qualities that have right release as their condition go to the culmination of their development.

"Thus, monks, there are twenty factors siding with skillfulness, and twenty with unskillfulness.

"This Dhamma discourse on the Great Forty has been set rolling and cannot be stopped by any contemplative or priest or deva or Mara and Brahma or anyone at all in the world.

"If any priest or contemplative might think that this Great Forty Dhamma discourse should be censured and rejected, there are ten legitimate implications of his statement that would form grounds for censuring him here and now. If he censures right view, then he would honor any priests and contemplatives who are of wrong view; he would praise them. If he censures right resolve...right speech...right action...right livelihood...right effort...right mindfulness...right concentration...right knowledge...If he censures right release, then he would honor any priests and contemplatives who are of wrong release; he would praise them. If any priest or contemplative might think that this Great Forty Dhamma discourse should be censured and rejected, there are these ten legitimate implications of his statement that would form grounds for censuring him here and now.

"Even Vassa and Bhañña -- those teachers from Okkala who were proponents of no-causality, no-action, and no-existence -- would not think that this Dhamma discourse on the Great Forty should be censured and rejected. Why is that? For fear of criticism, opposition, and reproach."

That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One's words.


Source: http://world.std.com/~metta/canon/majjhima/mn117.html
(Revised: 9 November 1998 )

[Mục lục kinh Trung Bộ][Trở về trang Thư Mục]