BuddhaSasana Home Page

VU Times font


THERAVĀDA
Phật Giáo Nguyên Thủy

Lời Vàng Bậc Thánh
Sớ giải Trưởng Lão Tăng-Ni Kệ

Bhikkhu Kusalapuñño
(Tỳ khưu Thiện Phúc)
Ấn bản 2007

 

Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)


  

PHẦN I

Sớ giải Trưởng Lão TăngKệ
(tt)

*

24- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO GIRIMĀNANDA

Được biết trưởng lão Girimānanda nói lên bài kệ rằng:

"Mưa rơi tiếng êm ả
Giống như điệu nhạc ru
Am thất ta khéo lợp
Có cửa đóng kín chặt
Ta an tịnh trong thất
Nếu muốn, hãy mưa đi
Mưa rơi tiếng êm ả
Giống như điệu nhạc ru
Am thất ta khéo lợp
Có cửa đóng kín chặt
Tâm an tịnh trong thất
Nếu muốn, hãy mưa đi
... ly tham trú trong thất...
... ly sân trú trong thất...
... ly si trú trong thất...
Nếu muốn, hãy mưa đi

Trong thời giáo pháp của Đức Thế tôn Sumedha, trưởng lão sanh vào một gia đình nghèo, phải làm lụng vất vả mới đủ sống. Khi trưởng thành, cha mẹ cưới cho chàng một thôn nữ và sanh cho chàng một đứa con trai, không bao lậu vơ con bị bệnh qua đời. Chàng vô cùng đau khổ, tinh thần khủng hoảng như điên như dại, đi lang thang vào rừng. Đức Thế tôn Sumedha thấy được duyên lành của chàng, Ngài ngự đến chỗ ấy, thuyết pháp nhổ lên mũi tên sầu muộn để tế độ chàng. Chàng như tỉnh cơn mê, khởi lòng tin trong sạch, quỳ đảnh lễ dưới chân Đức Thế tôn, cúng dường hương hoa và tán thán ân đức của Ngài.

Do thiện nghiệp đó, chàng luân chuyển trong cõi trời và cõi người suốt một thời gian dài đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, chàng sanh vào gia đình vị đại thần của vua Bimbisāra (Bình Sa Vương), tại thành Rājagaha (Vương Xá) và được đặt tên là Girimānanda. Khi Đức Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Girimānanda nhìn thấy uy nghi của Ngài, khởi niềm tin xin xuất gia. Sau khi xuất gia, tôn giả Girimānanda đi đến một ngôi làng xa kinh thành để hành pháp. Thời gian sau tôn giả trở về kinh thành Rājagaha để yết kiến Đức Thế tôn.

Đức vua Bimbisāra hay tin tôn giả trở về bèn ngự đến vấn an và có lời thỉnh rằng:

- Kính bạch tôn giả! Xin tôn giả hãy ở lại đây an cư mùa hạ, trẫm sẽ hộ độ tứ vật dụng đến tôn giả và dâng Ngài một am thất.

Trưởng lão im lặng nhận lời, Đức vua sau khi biết tôn giả nhận lời, đảnh lễ Ngài rồi cáo từ trở về triều. Khi về triều, Đức vua vì bận rộn nhiều công việc nên quên xây dựng am thất cho tôn giả Girimānanda, tôn giả phải ngụ ngoài trời.

Bấy giờ, đã đến mùa mưa, các vị chư thiên vì thấy tôn giả ở ngoài trời như thế, ngăn không cho mưa, khiến trời khô hạn, dân tình than oán, tới tai vua. Đức vua xem xét duyên cớ, sau khi hiểu được, bèn cho xây dựng am thất dâng tôn giả. Do được trú xứ thích hợp, tôn giả Girimānanda tinh cần phát triển thiền quán và chứng quả Alahán, như trong Apādana tôn giả nói lên bài kệ rằng:

Vợ của ta đã chết
Con ta ngoài mộ địa
Mẹ cha và anh ta
Cùng thiêu chung giàn hoả
Với sự sầu muộn đó
Luôn đốt cháy tâm ta
Thân thể ta tiều tuỵ
Tâm trở thành cuồng động
Ta lang thang vào rừng
Ăn quả rừng đỡ dạ
Thế tôn Sumedha
Bậc đoạn tận đau khổ
Ngài muốn tiếp độ ta
Đã ngự đến chỗ ấy
Nghe tiếng chân Thế Tôn
Bậc tìm cầu cao thượng
Ta ngoái đầu nhìn lại
Bậc đại hùng ngự đến
Ta phát sanh phỉ lạc
Bấy giờ, ta thấy Ngài
Bậc Đạo sư thế gian
Tâm ta hết cuồng động
Ta ức niệm trở lại
Dâng một nắm lá cây
Thế Tôn bèn ngự toạ
Trên những lá cây ấy
Giảng pháp đến ta rằng
Những người đã mất ấy
Không mời họ tự đến
Không cho họ tự đi
Họ tự đến, tự đi
Ngươi sầu bi làm gì
Với sự chết của họ
Như những loài có chân
Khi cơn mưa đổ xuống
Tự tìm nơi trú ẩn
Khi hạt mưa đã dứt
Cũng đi theo ý mình
Cha mẹ ngươi cũng thế
Ngươi sầu bi làm gì
Với sự chết của họ
Ví như người lữ khách
Đến một lúc rồi đi
Cha mẹ người cũng thế
Người sầu bi làm gì
Với sự chết của họ
Như rắn bỏ da cũ
Để được một thân mới
Cha mẹ ngươi cũng thế
Ngươi sầu bi làm gì
Với sự chết của họ
Sau khi nghe Phật thuyết
Mọi sầu muộn của ta
Được bứng lên tất cả
Khiến hân hoan phát sanh
Ta đảnh lễ Thế Tôn
Bậc tối thượng muôn loài
Ta đã cúng dường Ngài
Bậc Mahānāga
Hồng danh Sumedha
Bậc đạo sư thế gian
Sau khi cúng dường xong
Ta chấp tay lên trán
Niệm tưởng ân đức Phật
Rồi tán thán như vầy
Kính bạch Đại ẩn sĩ
Ngài là bậc Toàn Giác
Bậc đạo sư thế gian
Sau khi được giải thoát
Ngài dẫn dắt chúng sanh
Bằng trí tuệ của mình
Kính bạch đại Ẩn sĩ
Ngài đã tự chặt đứt
Tất cả mọi nghi hoặc
Tự làm cho Thánh đạo
Phát sanh bằng trí tuệ
Đã thành tựu ứng cúng
Đã đạt được lục thông
Các thinh văn đoanh vây
Các thinh văn của Ngài
Nổ như những đoá sen
Khi mặt trời vừa mọc
Như đại dương vô lượng
Không có chi sánh bằng
Khó có thể vượt qua
Cũng vậy Đức Thế Tôn
Đầy đủ với trí tuệ
Vô lượng, dường thế ấy
Ta đảnh lễ Thế tôn
Bậc chiến thắng thế gian
Với khắp cả bốn hướng
Rồi ta trở về nhà
Trong các kiếp chuyển sanh
Dù lúc vào thai mẹ
Lúc rời khỏi bụng mẹ
Lúc từ bỏ xuất gia
Ta chánh niệm, biết mình
Là người có tinh cần
Có tuệ, có viễn ly
Ta trú trong tinh cần
Khiến đạo sư hoan hỷ
Ta thoát khỏi phiền não
Như trăng thoát khỏi mây
Ta tìm cầu viễn ly
Tịch tịnh, không sanh y
Các lậu hoặc không còn
Trong kiếp 30.000
Kể từ hiền kiếp này
Với sự cúng dường nào
Chính do thiện sự ấy
Ta không biết khổ cảnh
Nay là kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não...
Lời Phật dạy làm xong".

Quả vị Alahán phát sanh cùng lúc với cơn mưa bắt đầu đổ hạt, hoan hỷ với quả chứng của mình và tiếng mưa rơi, trưởng lão nói lên năm bài kệ rằng:

"Mưa rơi tiếng êm ả
Giống như điệu nhạc ru
Am thất ta khéo lợp
Có cửa đóng kín chặt
Ta an tịnh trong thất
Nếu muốn, hãy mưa đi
Mưa rơi tiếng êm ả
Giống như điệu nhạc ru
Am thất ta khéo lợp
Có cửa đóng kín chặt
Tâm an tịnh trong thất
Nếu muốn, hãy mưa đi
... ly tham trú trong thất...
... ly sân trú trong thất...
... ly si trú trong thất...
Nếu muốn, hãy mưa đi

*

25- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO VAKKALI

Đức Thế Tôn phán hỏi trưởng lão rằng:

"Bị bệnh gió bức bách
Lại sống trong rừng sâu
Dược phẩm tìm khó khăn
Thân thể bị ốm gầy
Tỳ khưu sẽ làm gì?
Trưởng lão Vakkali thưa rằng
"Thân con được tràn ngập
Với hỷ lạc toả rộng
Dầu có bị ốm gầy
Con sẽ sống trong rừng".
"Tu tập bốn niệm xứ
Năm quyền và năm lực
Tu tập bảy giác chi
Con sẽ sống trong rừng"
"Vì thấy bạn đồng tu
Sống hoà hợp, dũng mãnh
Luôn kiên trì tinh tấn
Con sẽ sống trong rừng"
"Tuỳ niệm ân đức Phật
Bậc tối thượng điều ngự
Ngày đêm không biếng nhác
Con sẽ sống trong rừng".

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumuttara, trưởng lão tái sanh vào một gia đình Bàlamôn tại thành Haṃsavatī.

Một hôm, chàng thanh niên Bàlamôn này cùng với các cận sự nam đi đến tịnh xá thính pháp từ Đức Thế Tôn, chàng trông thấy Đức Thế Tôn xiển dương một vị tỳ khưu đệ nhất về hạnh Đức tin, chàng thoả thích với hình ảnh đó, nên cung thỉnh Đức Phật cùng đại chúng tỳ khưu về nhà trai tăng cúng dường suốt bảy ngày, rồi quỳ dưới chân Thế Tôn chú nguyện rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Do phước báu mà con đã trong sạch cúng dường thực phẩm suốt bảy ngày, xin cho con được vị trí tối thắng về hạnh Đức tin trong giáo pháp Đức Chánh Đẳng Giác vị lai. Đức Thế Tôn dùng Phật nhãn quán chiếu vị lai, Ngài thấy nguyện vọng của Bàlamôn này sẽ thành tựu, nên Ngài tiên đoán và phúc chúc an lành đến chàng.

Sau một thời gian dài luân chuyển giữa cõi trời cùng cõi người, đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, Ngài tái sanh vào một gia đình Bàlamôn tại thành Sāvatthī và được đặt tên là Vakkali. Khi trưởng thành, công tử Vakkali học nằm lòng tam phệ đà và thành tựu các học nghệ của Bàlamôn.

Một hôm, Vakkali nhìn thấy Đức Thế Tôn, chàng say mê đắm đuối thân hình tuyệt vời của Thế Tôn và đi theo nhìn Ngài không biết chán. Khi trở về nhà, Vakkali suy nghĩ rằng: "nếu ta còn tại gia, ta không thể ngắm nhìn Ngài thoả thích được, vậy ta sẽ xuất gia".

Rồi Vakkali đi đến xuất gia nơi Thế Tôn, ngoại trừ lúc ăn uống và tắm rửa, tôn giả Vakkali dành hết thời gian để chiêm ngưỡng Đức Phật.

Đức Thế Tôn chờ đợi duyên lành của tôn giả đến khi chín muồi, trải qua một thời gian dài mặc cho tôn giả Vakkali ngắm nhìn thoả thích, Ngài không lên tiếng. Đến một ngày nọ, Đức Thế Tôn phán rằng:

- Này Vakkali! Lợi ích gì cho ngươi với việc ngắm nhìn tấm thân bất tịnh này? Này Vakkali, người nào thấy pháp người ấy thấy Như Lai, người nào thấy Như Lai người ấy thấy pháp. Vì rằng thấy pháp tức thấy Như Lai và thấy Như Lai tức thấy pháp.

Mặc dầu Đức Thế Tôn nói như thế, nhưng tôn giả Vakkali cũng không thể từ bỏ việc chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn và rời khỏi chỗ đó được. Đức Thế Tôn nghĩ rằng: "Vị tỳ khưu này nếu không làm xúc động mạnh, sẽ không thức tỉnh".

Vào ngày an cư mùa mưa, Đức Thế Tôn bảo Vakkali rằng:

- Này Vakkali! Hãy đi đi.

Tôn giả Vakkali bị Thế Tôn đuổi không thể tiếp tục ở kề cận Đức Thế Tôn, suy nghĩ rằng: "Đời ta có ý nghĩa gì nếu không được gặp Thế Tôn". Tôn giả leo lên núi Gijjhakūṭa (Linh Hưu), định gieo mình xuống vực, Đức Thế Tôn biết được ý định của tôn giả Vakkali, Ngài nghĩ rằng:

- Tỳ khưu Vakkali khi không được nhìn thấy Như Lai sẽ tự phá hoại duyên lành đạo quả của mình, Như Lai sẽ tế độ cho vị ấy.

Ngài phóng hào quang hiện thân ra trước mặt tôn giả Vakkali và nói lên bài kệ rằng:

"Tỳ khưu nhiều hân hoan
Tịnh tín giáo pháp Phật
Chứng đạt pháp tịch tịnh
Tịnh chỉ hành, an lạc".

Ngài đưa cánh tay ra nói rằng:

- Hãy đến này Vakkali!

Tôn giả Vakkali nghĩ rằng:

- Ta đã thấy bậc đạo sư rồi và Ngài gọi ta đến.

Tôn giả phát sanh hỷ lạc, bất kể việc đi đến ra sao, cứ từ trên hư không hướng về Đức Thế Tôn đi xuống, do hỷ lạc phát sanh sung mãn từ tâm tịnh tín nên thân Ngài nhẹ nhàng như chiếc lá rơi, khi bước chân vừa chạm lên mặt đất, cùng lúc đó tôn giả ngẫm lại bài kệ của Thế Tôn, tự mình ngăn phỉ lạc, phát triển tuệ quán chứng quả Alahán cùng với tuệ phân tích. Như đã trình bày trong chú giải Tăng chi bộ và chú giải Pháp cú kinh.

Trong đoạn này, một số vị giáo thọ sư nói rằng: "Bậc Đạo sư đã nói với tôn giả Vakkali rằng: "Này Vak-kali! Ngươi sẽ được lợi ích gì với hành động như thế?". Rồi tôn giả Vakkali ở trên núi bắt đầu phát triển thiền quán, nhưng vì tôn giả nặng về đức tin nên tuệ quán không tiến triển xuyên suốt được. Đức Thế Tôn biết sự vướng mắc của tôn giả, Ngài giúp gội rửa cho thanh tịnh, nhưng tôn giả cũng không thể làm cho tuệ quán đạt đến đỉnh cao. Về sau, tôn giả bị bệnh do ảnh hưởng vật thực, Đức Thế Tôn biết tôn giả bị bệnh gió hoành hành, Ngài ngự đến chỗ ấy, phán hỏi rằng:

"Bị bệnh gió bức bách
Lại sống trong rừng sâu
Dược phẩm tìm khó khăn
Thân thể bị ốm gầy
Tỳ khưu sẽ làm gì?

Tôn giả sau khi nghe những lời ấy mới nói lên bốn bài kệ rằng:

"Thân con được tràn ngập
Với hỷ lạc toả rộng
Dầu có bị ốm gầy
Con sẽ sống trong rừng".
"Tu tập bốn niệm xứ
Năm quyền và năm lực
Tu tập bảy giác chi
Con sẽ sống trong rừng"
"Vì thấy bạn đồng tu
Sống hoà hợp, dũng mãnh
Luôn kiên trì tinh tấn
Con sẽ sống trong rừng"
"Tuỳ niệm ân đức Phật
Bậc tối thượng điều ngự
Ngày đêm không biếng nhác
Con sẽ sống trong rừng".

Tôn giả sau khi nói như thế liền phát triển thiền quán, chứng quả Alahán. Như trong Apadāna, tôn giả nói lên bài kệ rằng:

"Kể từ hiền kiếp này
Đến 100.000 kiếp
Có vị Chánh Đẳng Giác
Padumuttara
Sanh lên trong thế gian
Hồng danh Ngài như vậy
Vì gương mặt của Ngài
Đẹp như đoá hoa sen
Có làn da mịn màng
Vô cấu như hoa sen
Vô nhiễm với thế gian
Như sen không dính nước
Là bậc đại trí tuệ
Có quyền (căn) như lá sen
Khả ái như đoá sen
Và bờ môi thơm tho
Như hương của cánh sen
Do vậy Ngài có tên
Padumuttara
Ngài là bậc cao cả
Hơn thế gian muôn loài
Với uy nghi an tịnh
Là chỗ giữ đức hạnh
Chỗ tiếp nhận trí tuệ
Dù bất cứ lúc nào
Bậc đại ẩn sĩ ấy
Là người mà chư thiên
Phạm thiên, Atula
Lễ bái và cúng dường
Là bậc thắng cao thượng
Giữa các hàng chiến thắng
Trải khắp cả nhân thiên
Với chất giọng ngọt ngào
Với pháp âm vi diệu
Ngài khiến cho hội chúng
Hoan hỷ hưởng niềm tin
Rồi Ngài đã biểu dương
Vị Thinh văn ấy rằng
Với các vị tỳ khưu khác
Giải thoát khỏi phiền não
Bằng niềm tin trí tuệ
Tìm cách chiêm ngưỡng ta
Như Vakkali này
Sẽ không thể có được
Bấy giờ, ta tái sanh
Con trai Bàlamôn
Tại thành Haṃsasvatī
Sau khi nghe Phật ngôn
Thoả thích vị trí ấy
Nên ta thỉnh Đức Phật
Bậc viễn ly bụi trần
Cùng đại chúng tỳ khưu
Cúng dường suốt bảy ngày
Cùng với y càsa
Rồi ta khấu đầu xuống
Trong đại dương ân đức
Của bậc Thiện tuệ ấy
Lòng tràn đầy phỉ lạc
Ta phát nguyện như vầy
Kính bạch đại ẩn sĩ
Do phước báu mà con
Đã trong sạch cúng dường
Trong suốt bảy ngày qua
Xin cho con được như
Vị có tín giải thoát
Mà Ngài đã tán dương
Tối thắng hạnh đức tin
Trong giáo pháp của Nài
Khi ta phát nguyện xong
Bấy giờ, đại ẩn sĩ
Bậc tinh cần dũng mãnh
Có tri kiến vô ngại
Giữa hội chúng phán rằng
Hãy nhìn thanh niên này
Mặt vải vàng trơn láng
Thân do phước kết thành
Giống như khối vàng ròng
Thu hút mắt và tâm
Của phần đông pháp hội
Nối tiếp trong vị lai
Thanh niên này sẽ thành
Thinh văn của Thế tôn
Hồng danh Gotama
Thù thắng hơn chư tăng
Về hạnh tín giải thoát
Dù làm người hay trời
Cũng ly sự khổ não
Luân chuyển trong an lạc
Trong 100.000 kiếp
Kể từ hiền kiếp này
Có vị Chánh Đẳng Giác
Hồng danh Gotama
Sanh lên trong thế gian
Chàng thanh niên này sẽ
Là người thừa tự pháp
Của Đức Thế Tôn ấy
Tên là Vakkali
Chính do thiện nghiệp đó
Sau khi ta mạng chung
Được sanh cõi Đạo lợi
Rồi cuối cùng ta sanh
Gia đình Bàlamôn
Tại thành Sāvatthī
Mẹ ta vì lo sợ
Từ ma quỷ uy hiếp
Nên tinh thần hốt hoảng
Bấy giờ, ta yếu ớt
Giống như cục bơ đặc
Mềm mại như lá non
Bà đem ta đặt xuống
Dưới chân Đức Thế Tôn
Nói với Thế Tôn rằng
Kính bạch đấng Thế Y
Xin Ngài hãy từ bi
Tiếp nhận đứa bé này
Con dâng nó đến Ngài
Kính bạch đấng Thế Y
Xin Ngài hãy trở thành
Chỗ nương tựa của nó
Lúc ấy, bậc ẩn sĩ
Bậc nương nhờ muôn loài
Ngài đã tiếp nhận ta
Với bàn tay mềm mại
Ta được Phật che chở
Thoát khỏi mọi bệnh tật
Luôn sống trong an lạc
Lớn lên ta xuất gia
Ta không biết no đủ
Với sự chiêm ngưỡng Phật
Lúc ấy, Thế Tôn biết
Ta thoả thích thân Ngài
Ngài phán dạy ta rằng
Chớ nên! Vakkali
Lợi ích gì cho ngươi
Với thân khả ố này
Người nào thấy diệu pháp
Người ấy thấy Như Lai
Người không thấy diệu pháp
Sẽ không thấy Như lai
Thân này rất nguy hiểm
Ví như cây có độc
Là chỗ trú của bệnh
Chỗ hội tụ của khổ
Vậy ngươi hãy nhàm chán
Trong xác thân ô trược
Quán chiếu sự sanh diệt
Của cả thảy các uẩn
Mới có thể đoạn tận
Tất cả các phiền não
Sau khi nghe giáo huấn
Bậc dẫn dắt thế gian
Ta lên núi Linh thứu
Ngắm nhìn một khe núi
Đức Thế Tôn ngự đến
Đứng một bên triền núi
Với ý khích lệ ta
Ngài đã phán gọi rằng
Hỡi này Vakkali
Ta nghe tiếng Thế Tôn
Tâm hân hoan thoả thích
Ta phóng xuống triền núi
Cao nhiều trăm thân người
Do nhờ oai lực Phật
Ta bình an vô sự
Rồi Ngài đã thuyết pháp
Ta thâm nhập pháp ấy
Chứng đạt Alahán
Sau đó Đức Thế Tôn
Bậc có đại trí tuệ
Giữa đại chúng Thinh văn
Ngài biểu dương ta rằng
Tỳ khưu Vakkali
Thù thắng hơn chư tăng
Về hạnh tín giải thoát
Trong 100.000 kiếp
Kể từ hiền kiếp này
Với sự cúng dường nào
Chính do thiện nghiệp ấy
Ta không biết khổ cảnh
Nay là kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não...
Lời Phật dạy làm xong".

*

26- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO UTTARA

Được biết trưởng lão Uttara đã nói lên bài kệ rằng:

"Cõi thường hằng không có
Hành thường hằng cũng không
Uẩn luôn sanh và diệt
Biết được hiểm họa nầy
Ta không cầu sanh hữu
Từ bỏ mọi dục lạc
Các lậu hoặc đoạn trừ".

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Sumedha, trưởng lão tái sanh trong gia đình Bà la môn.

Khi lớn lên chàng học xong ba tập phệ đà cùng các chú thuật của Bà la môn, chàng thường sử dụng chú thuật để du hành trên hư không.

Một hôm, bậc Đạo Sư nhận thấy duyên lành của chàng, Ngài bèn ngự đến chỗ ấy, ngồi dưới một gốc đại thọ phóng hào quang sáu màu, đang phi hành trên hư không, nhìn thấy Đức Thế Tôn với hào quang sáu màu rực rỡ, chàng phát khởi niềm tin hạ xuống, chọn hái những đoá hoa Kannikara xinh đẹp cúng dường Đức Thế Tôn.

Nhờ Phật lực khiến những đóa hoa ấy kết lại với nhau như mặt lọng che phía trên bậc Đạo Sư. Nhìn thấy cảnh kỳ diệu như thế, trong lòng chàng dâng lên một niềm tin hân hoan tín thành tột độ.

Mạng chung từ kiếp ấy, chàng được sanh lên cõi Đạo Lợi.

Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, chàng dược tái sanh trong một gia đình Bà la môn giàu có tại thành Rajagaha và có tên là Uttara.

Khi lớn lên Uttara thành thạo các học nghề của Bà la môn và nổi tiếng nhiều mặt: gia tộc, dung sắc cũng như về đức hạnh.

Một đại thần xứ Magadha tên là Vassakara, thấy những thành tích của Uttara có ý muốn gả con gái và đã ngỏ lời với chàng. Do duyên lành giải thoát đã tròn đủ khiến tâm tư Uttara chỉ hướng về xuất ly, nên đã từ chối nhã ý của vị đại thần.

Rồi Uttara đến chỗ tôn giả Sariputta (Xá Lợi Phất) và được thính pháp, chỉ với một thời pháp trong lòng chàng đã an lập một niềm tin mãnh liệt rồi chàng xin xuất gia xong, sadi Uttara đã chu toàn những phận sự của người học trò đối với thầy hòa thượng.

Một hôm, trưởng lão Sariputta bị bệnh, với ý định đi tìm thuốc cho trưởng lão, sadi Uttara đắp y mang bát rời khỏi tịnh xá từ mờ sáng, khi đến bờ sông, sadi đặt bát tại mé bờ, rồi lần xuống bến nước để súc miệng.

Lúc bấy giờ, có một tên ăn trộm bị lính đuổi bắt, chạy ra khỏi cổng thành, khi ngang qua chỗ sadi Uttara tên trộm đã bỏ gói báu vật đánh cắp vào bát, rồi trốn đi.

Sau khi rữa mặt xong, sadi trở lên gần tới bình bát, quân lính cũng vừa đuổi tới thấy gói tang vật nằm trong bát của sadi, chúng hỏi rằng "Sadi nầy là kẻ trộm, sadi nầy đã phạm tội trộm cắp", rồi bắt vị sadi trói lại và dẩn đến quan đại thần Vassakara được đức vua giao nhiệm vụ xét xử vụ án, ông ta không chịu thẩm tra tường tận, cũng không hỏi nhân chứng, truyền lịnh cho lấy giáo nhục hình và bêu xấu tội trạng của sadi vì ông ta có hiềm khích rằng:

"Trước kia, vị sadi nầy không nể tình ta và còn rời khỏi Bà la môn giáo".

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng Phật nhãn quán thấy trí tuệ giải thoát của sadi Uttara đã chín muồi. Ngài bèn ngự đến đặt những ngón tay mềm mại được bao phủ bởi hào quang ví như những tia sáng màu đỏ tủa ra trên đầu của vị sadi và Ngài phán rằng:

"Nầy Uttara, đây là quả nghiệp trước kia của con, con cần phải kham nhẫn với sức mạnh của việc khéo suy quán nghiệp báo".

Rồi Đức Thế Tôn tùy căn cơ thuyết pháp. Bàn tay Đức Phật thật êm ấm, pháp âm của Ngài mới vi diệu làm sao. Sadi Uttara cảm thấy yên ổn lạ thường, một cảm giác thanh thản chưa hề có. Ngay lập tức, sadi thấu đáo lời Phật dạy phát triển thiền quán đoạn tận các lậu hoặc chứng đạt lục thông.

Như trong tập Apadana, tôn giả kể lại rằng:

"Đức Chánh Đẳng Chánh Giác
Hồng danh Sumedha
Đầy đủ đại nhân tướng
Bậc Ẩn sĩ cao quý
Lòng tràn đầy bi mẫn
Ngự đến rừng Hy mã
Ngồi an trú thiền định
Bấy giờ tại Hy mã
Ta trì luyện chú thuật
Phi hành trên hư không
Ta nhìn thấy Thế Tôn
Chói sáng giữa rừng già
Như lửa trên đỉnh núi
Như mặt trăng đêm rằng
Hoặc ví như cây chúa
Trổ đầy hoa rực rỡ
Ta rời khỏi khu rừng
Bay hướng về hào quang
Sáng rực như màu lửa
Của bậc Chánh Đẳng Giác
Khiến tâm ta tịnh tín
Ta hướng tìm hoa thơm
Thấy hoa Kannika
Ta hái lấy ba đoá
Cúng dường bậc cao thượng
Do nhờ uy lực Phật
Khiến ba đóa hoa ấy
Nở xoè ra thật lớn
Kết lại như mặt lọng
Che phía trên Thế Tôn
Nhìn thấy cảnh hy hữu
Tâm ta đầy hỷ lạc
Chính do thiện nghiệp đó
Sau khi ta mạng chung
Được sanh cõi Đạo Lợi
Ta được toà thiên cung
Cao sáu mươi do tuần
Rộng ba mươi do tuần
Thật vô cùng lộng lẫy
Tên là Kannika
Khuôn viên chỗ ta ở
Lớn một trăm do tuần
Được bao phủ bởi hoa
Kannika xinh đẹp
Có thiên nử doanh vây
Hầu hạ phục vụ ta
Ta trị vì thiên giới
Cả thảy năm trăm lần
Ba trăm lần được sanh
Làm vị chuyển luân vương
Và nhiều lần được sanh
Làm vị đại hoàng đế
Trong những kiếp sanh tử
Dù ở giai cấp nào
Ta cũng nhiều tài sản
Đây chính là kết quả
Của việc cúng dường Phật
Ta chỉ sanh hai dòng
Là dòng Sát-Đế-Ly
Và dòng Bà la môn
Không sanh vào dòng thấp
Đây chính là kết quả
Của việc cúng dường Phật
Ta không biết sự lạnh
Ta không biết sự nóng
Không có sự bất an
Và khổ tâm không có
Đây chính là kết quả
Của việc cúng dường Phật
Trong các kiếp tái sanh
Ta luôn được đầy đủ
Sung túc về vật chất
Thân tâm ta an lạc
Được cung phụng chu đáo
Đây chính là kết quả
Của việc cúng dường Phật
Do thiện căn dẫn dắt
Khi mạng chung thiên giới
Ta lại được tái sanh
Vào dòng Bà la môn
Giàu có gia sản lớn
Ta từ bỏ dục lạc
Trở thành bậc xuất gia
Khi ta được bảy tuổi
Đã chứng quả vô sanh
Thế Tôn bậc tuệ nhãn
Biết đức hạnh của ta
Ngài bèn truyền cụ túc
Tuy tuổi còn nhỏ
Cũng xứng đáng cúng dường
Đây chính là kết quả
Của việc cúng dường Phật
Thiên nhãn ta thanh tịnh
Thiên xảo trong thiền định
Đầy đủ các thắng trí
Đây chính là kết quả
Của việc cúng dường Phật
Ta chứng Vô ngại giải
Thuần thục trong thần túc
Cụ túc trong diệu pháp
Đây chính là kết quả
Của việc cúng dường Phật
Trong kiếp ba mươi ngàn
Ta cúng dường Phật nào
Chính do thiện sự đó
Ta không biết khổ cảnh
Đây chính là kết quả
Của việc cúng dường Phật
Ta thiêu đốt phiền não...
Lời Phật dạy làm xong"

Sau khi chứng đạt lục thông, sadi Uttara bật ra khỏi dây trói từ các ngọn giáo vươn mình bay lên hư không, biểu diển thần thông với mục đích tiếp độ những người tại nơi ấy. Đại chúng chứng kiến cảnh tượng kỳ diệu hi hữu vô cùng kinh cảm và thán phục.

Kế đó, vết thương của tôn giả bị sưng lên, các vị tỳ khưu thấy vậy mới hỏi rằng:

"Nầy hiền giả, trong lúc cảm thọ khổ như thế, sao hiền giả lại có thể phát triển tuệ quán được"

Tôn giả Uttara đáp:

"Nầy chư hiền hữu, sự đau khổ nầy sao có thể sánh với hiểm họa của luân hồi và do khéo thấy thực tánh của các hành, nên dù thọ khổ như thế, tôi vẫn có thể phát triển tuệ quán và chứng đạt đạo quả".

Rồi tôn giả nói lên hai bài kệ rằng:

"Cõi thường hằng không có
Hành thường hằng cũng không
Uẩn luôn sanh và diệt"
"Biết được hiểm họa nầy
Ta không cầu sanh hữu
Từ bỏ mọi dục lạc
Các lậu hoặc đoạn trừ".

*

27- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO PINDOLABHARADVAJA

Được biết trưởng lão Pindolabharadvaja đã nói lên bài kệ rằng:

"Cuộc sống nầy của ta
Được nuôi dưỡng chơn chánh
Vật thực không thể tạo
Cho tâm tư an tịnh
Do có các món ăn
Thân thể được tồn tại
Thấy vậy, ta bộ hành
Tìm vật thực đúng pháp"
"Bậc trí tuyên bố rằng
Sự đảnh lễ cúng đường
Từ các người gia chủ
Là vũng bùn (kinh hoàng)
Là mũi tên tế nhị
Rất khó nhổ ra được
Nhưng đối với kẻ ngu
Cung kính khó từ bỏ".

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumut-tara, trưởng lão tái sanh làm sư tử chúa, sống trong một hang núi.

Một hôm, Đức Thế Tôn quán thấy duyên lành của sư tử chúa, với mục đích tiếp độ, Ngài ngự đến hang núi ấy, ngồi nhập thiền diệt. Bấy giờ sư tử đã rời khỏi hang đi kiếm ăn, khi tìm được mồi tha về, sư tử nhìn thấy Đức Thế Tôn đang ngồi nhập đại định tại cửa hang, do từng gieo duyên với Chư Phật, nên vừa thấy Ngài, trong lòng nó dâng lên một niềm hân hoan trong sạch. Sư tử chúa liền để miếng mồi xuống, chạy đi tìm bông hoa về cúng dường Phật và để bảo vệ sự yên bình cho Ngài, nó đã rống lên tiếng sư tử, xua đuổi những mãnh thú khác không cho đến phiền nhiểu Đức Thế Tôn, rồi trở vào đứng hầu Phật và sư tử chúa đã làm như thế suốt thời gian Thế Tôn nhập đại định.

Đến ngày thứ bảy, Thế Tôn xã thiền xong, Ngài nghĩ rằng:

"Với chừng ấy, cũng vừa đủ làm duyên lành cho sư tử chúa" Ngài bèn bay lên hư không ngự trở về tịnh xá, sư tử chúa đứng nhìn theo Đức Phật cho đến khuất tầm mắt, cùng với nổi kính tiếc vô hạn dâng lên trong lòng khiến nó mệnh chung ngay lúc ấy và được tái sanh trong một gia đình giàu có tại thành Hamsavati.

Một hôm, chàng công tử nầy tháp tùng theo dân chúng trong thành, đến tịnh xá nghe pháp nơi Bậc Đạo Sư, sau thời pháp chàng phát khởi niềm tin trong sạch, xin quy ngưỡng tam bảo và cung thỉnh Đức Phật cùng chư Tăng về nhà cúng dường đại thí suốt bảy ngày.

Chàng đã phụng sự hộ độ tam bảo và thực hiện các hạnh lành của người cận sự nam cho đến khi mạng chung. Với phước báu tạo trử, chàng được sanh lên thiên giới.

Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, chàng sanh làm con trai quan tế tự của đức vua Udena thành Kosambi và được đặt tên là Bharadvaja.

Khi lớn lên Bharadvaja học xong ba tập phệ đà và dạy chú thuật cho 500 thanh niên Bà la môn, nhưng không bao lâu ông bị các thanh niên ấy ruồng bỏ vì có những sở hành không thích hợp và vì là người tham ăn.

Bharadvaja buồn bã đi đến thành Rajagaha (Vương xá), nhìn thấy Đức Thế Tôn và chư Tăng được lợi lộc tôn trọng, bèn xin tu trong giáo pháp. Sau khi xuất gia, Bharadvaja quen thói cũ vẫn không tiết độ trong ẩm thực, khiến Đức Thế Tôn khiển trách, rồi Ngài giáo giới cho trở thành người biết độ lượng, từ khi được Bậc Đạo Sư nhắc nhỡ, tôn giả đã phục thiện và không lâu sau do nhiệt tâm tinh cần tu tập tôn giả Bharadvaja cũng chứng đạt lục thông.

Giai thoại nầy được tôn giả kể trong tập Apadana.

"Một kiếp quá khứ
Ta sanh làm thợ săn
Trong lúc đi tìm thú
Ta thấy Đức Chánh Giác
Bậc viễn ly bụi trần
Liễu tri tất cả pháp
Ta phát tâm trong sạch
Đi tìm những quả ngon
Đến cúng dường Đức Phật
Bậc tối thượng thế gian
Bậc phước điền cao thượng
Bằng hai tay cung kỉnh
Trong kiếp thứ ba mươi mốt
Ta cúng dường Phật nào
Do sự cúng dường đó
Ta không biết khổ cảnh
Đây chính là kết quả
Của việc cúng dường Phật
Nay là kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não...
Lời Phật dạy làm xong".

Sau khi chứng lục thông, tôn giả Bharadvaja suy nghĩ rằng:

"Đạo quả nào, các bậc Thinh văn cần phải tác chứng trước mặt Thế Tôn đạo quả ấy, ta đã tác chứng".

Rồi tôn giả rống lên tiếng rống con sư tử giữa chư tỳ khưu rằng:

"Vị nào có hoài nghi về đạo quả, vị ấy hãy đến hỏi ta".

Do nhân đó, trong một buổi họp của chư Tăng Bậc Đạo Sư phán rằng:

"Nầy chư tỳ khưu, trong hàng Thinh văn của Như Lai, Pindolabharadvaja đệ nhất về hạnh rống tiếng rống con sư tử."

Một hôm, tôn giả muốn tiếp độ một vị Bà la môn tà kiến, có tâm bỏn xẻn, từng là bạn khi còn là cư sĩ, tôn giả đi đến nhà ông ta, giảng giải về quả báo của sự bố thí cho vị Bà la môn ấy hiểu.

Nghe xong, vị Bà la môn nhiếu mày tỏ thái độ không vừa lòng, ông nghĩ thầm:

"Bộ vị trưởng lão nầy, muốn cho tài sản ta suy kiệt".

Rồi ông nói với tôn giả Bharadvaja rằng:

"Tôi chỉ dâng một phần cơm cho tôn giả thôi"

Tôn giả nói với vị Bà la môn:

"Ông hãy dâng cơm ấy đến Tăng, chớ dâng ta". Rồi khuyến khích vị Bà la môn đem phần cơm ấy cúng dường Tăng.Vị Bà la môn chần chừ, tỏ thái độ không bằng lòng nghĩ rằng:

"Vị trưởng lão nầy muốn ta cúng dường cho nhiều vị tỳ khưu".

Để cho tâm vị Bà la môn hoan hỷ tín thành, tôn giả bèn giảng về quả báu của sự cúng dường Tăng chúng, rồi tôn giả suy nghĩ:

Chắc vị Bà la môn này tưởng việc ta khuyến khích hắn dâng cúng là vì muốn được vật thực, vậy ta sẽ làm cho hắn biết" bèn nói lên hai bài kệ:

"Cuộc sống nầy của ta
Được nuôi dưỡng chân chánh
Vật thực không thể tạo
Cho tâm tư an tịnh
Do có các món ăn
Thân thể được tồn tại
Thấy vậy ta bộ hành
Tìm vật thực đúng pháp"
"Bậc trí tuyên bố rằng
Sự đãnh lễ cúng dường
Từ các người gia chủ
Là vũng bùn (kinh hoàng)
Là mũi tên tế nhị
Rất khó nhổ ra được
Nhưng đối với kẻ ngu
Cung kính khó từ bỏ".

*

28- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO VASABHA

Được biết trưởng lão Vasabha đã nói lên bài kệ rằng:

"Đối với người giả dối
Chúng tự giết mình trước
Sau đó giết kẻ khác
Với người giả dối ấy
Tự giết mình dễ dàng
Ví như thợ săn chim
Với bẩy bắt giết chim"
"Không phải Bà la môn
Chỉ dung sắc bên ngoài
Vì là Bà la môn
Còn dung sắc bên trong
Với ai làm ác nghiệp
Người ấy là hắc nhân
Nầy Sujamapati
Ngài hãy biết như vậy."

Vị trưởng lão nầy đã tích trử nhiều thiện duyên giải thoát với Chư Phật quá khứ. Có một kiếp, trưởng lão sanh trong một gia đình Bà la môn với danh xưng là Narada.

Bấy giờ là thời kỳ ngoài giáo pháp của Đức Chánh Đẳng Giác, khi lớn lên Narada thông thạo các học nghệ của Bà la môn.

Do quá khứ gieo nhiều chủng tử bồ đề, nên tâm tư Narada luôn hướng đến một đời sống xuất ly, chàng đã từ bỏ mọi hấp dẫn của thế gian, xuất gia làm đạo sĩ, dựng lên một am thất tại núi Samagga không xa núi Hy mã.

Sống giữa thiên nhiên hoang dã u tịch, không bao lâu đạo sĩ Narada chứng được bát thiền ngũ thông. Với tấm lòng từ bi rộng mở đạo sĩ đã tiếp độ và dạy dỗ các học trò sống theo chí hướng của mình.

Một hôm đạo sĩ nẩy sinh ý nghĩ như vầy:

"Bây giờ, ta là chỗ tôn trọng cung kính cúng dường của các học trò, nhưng không có ai để ta lễ bái cúng dường, sống mà không có người để tôn kính quả thật là một nỗi khổ".

Sau khi suy nghĩ như thế, đạo sĩ Narada bỗng nhớ lại những thiện hạnh lễ bái cúng dường mà mình đã tạo nơi bảo tháp xá lợi Phật, đạo sĩ vô cùng hoan hỷ, bèn dùng thần thông tôn tạo một bảo tháp bằng vàng rực rỡ, từ đó mỗi ngày đạo sĩ lễ bái cúng dường bảo tháp bằng những đóa hoa xinh đẹp.

Đạo sĩ Narada tự mình tu tập thiền định, khuyên dạy các học trò và lễ bái cúng dường bảo tháp cho đến khi mạng chung, được sanh lên phạm thiên giới.

Sống an lạc trên cõi phạm thiên rất lâu, mạng chung từ kiếp ấy đạo sĩ tái sanh trong cõi Đạo lợi.

Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, đạo sĩ tái sanh trong hoàng tộc Licchavi tại thành Vesali và có tên là Vasabha.

Trên bước đường du hóa hoằng khai chánh pháp tế độ quần sanh, một lần nọ Đức Thế Tôn ngự đến thành Vesali, do duyên lành chín muồi nên khi nhìn thấy uy nghi đức độ của Ngài, vương tử Vasabha đã khởi niềm tin trong sạch muốn sống đời phạm hạnh trong giáo pháp của Đạo Sư.

Sau khi xuất gia, nhờ nhiệt tâm tinh cần, nên kế đó không lâu tôn giả Vasabha cũng chứng đạt Alahán.

Trong tập Apadana tôn giả kể lại như sau:

"Không xa Hy mã sơn
Có một ngọn núi cao
Tên là Samagga
Ta kiến tạo am thất
Dựng lên dãy nhà rộng
TạI dãy thâm sơn ấy
Ta là vị đạo sĩ
Sống tinh cần dõng mãnh
Danh xưng Narada
Với bốn vạn học trò
Hầu hạ phục vụ ta
Rồi tư tưởng sau đây
Đã khởi lên cho ta
Đại chúng cúng dường ta
Ta không cúng dường ai
Người nhắc nhở cũng không
Ta không có bậc thầy
Tại đây học trò ta
Bậc thầy, bậc khả kính
Đáng cúng dường phục vụ
Chúng có được cả hai
Bậc ấy ta không có
Vậy việc ở rừng nầy
Sẽ khiếm khuyết lợi ích
Chỗ xứng đáng cúng dường
Ta cần phải tìm kiếm
Chỗ xứng đáng tôn kính
Ta cũng phải tầm cầu
Khi có chỗ nương tựa
Nào ai chê trách được
Không xa am thất ta
Có một dòng nước mát
Với bến nước phẳng lặng
Được trãi đầy cát trắng
Rồi ta đến dòng nước
Tên Amasika
Hốt lấy cát mang về
Xây dựng ngôi bảo tháp
Tháp của Bậc Chánh Giác
Đã viên tịch nhiều kiếp
Với uy lực thần thông
Ta tạo nên bảo tháp
Bằng cát vàng rực rỡ
Rồi ta hái bông hoa
Đến cúng dường bảo tháp
Ta vô cùng thỏa thích
Đứng chấp tay tôn kính
Lễ bái cả sáng chiều
Ta đảnh lễ bảo tháp
Như đãnh lễ trước mặt
Của bậc Chánh Giác vậy
Khi phiền não phát sanh
Mắt hướng về bảo tháp
Ta niệm ân Đức Phật
Bậc dẫn dắt chúng sanh
Ra khỏi vùng hiểm nạn
Bậc dẫn dắt đặc thù
Và tự nhắc nhở rằng
Hãy canh phòng phiền não
Hỡi này người ly khổ
Thật là không xứng đáng
Khi để phiền não sanh
Bấy giờ khi tâm ta
Niệm tưởng đến bảo tháp
Lòng tôn kính phát sanh
Ta đoạn trừ các tầm
Xấu xa đáng ghét ấy
Ví như voi cao quí
Bị đâm xuyên qua tai
Cũng vậy khi đang niệm
Tử thần đã tìm đến
Ta mạng chung tại đấy
Sanh lên cõi Phạm thiên
Sống trên cõi Phạm thiên
Đến khi tuổi thọ tận
Ta sanh cõi Đạo lợi
Tám mươi lần ta làm
Vị thiên chủ Đế Thích
Cai quản trong cõi ấy
Ba trăm lần ta sanh
Làm Chuyển luân Thánh vương
Và nhiều lần được làm
Vị vua Đại quốc độ
Bụi nhớp không bám dính
Trên thân thể của ta
Mồ hôi cũng không có
Và hào quang tủa ra
Từ thân thể của ta
Bảo tháp ta khéo tạo
Sông Amarika
Ta đã khéo ngắm nhìn
Ta chứng đạt bất động
Do xây dựng bảo tháp
Những ai muốn hành thiện
Hãy nương đều lợi ích
Không phải do nhân khác
Mà chính sự thực hành
Sẽ đưa đến kết quả
Như người có sức mạnh
Và có sự tinh cần
Cầm khúc gỗ nghĩ rằng
Nương vào khúc gỗ này
Ta sẽ vượt qua sông
Người đời vượt qua sông
Do nương vào tinh tấn
Cũng vậy ta nương vào
Từng từng thiện sự nhỏ
Vượt qua được luân hồi
Đến kiếp cuối cùng này
Do thiện căn dẫn dắt
Ta sanh vào gia đình
Bà la môn giàu có
Tại thành Savatthi
Cha và mẹ của ta
Là người có niềm tin
Thành kính nơi Đức Phật
Hai bậc đại ân ấy
Đã thấy pháp nghe pháp
Và thực hành theo pháp
Hai vị ấy cầm lấy
Tấm vải trắng tinh khiết
Lau bóng bảo tháp vàng
Và đãnh lễ trước mặt
Thế Tôn bậc chiến thắng
Sáng tối ngày trai giới
Hai vị lấy tháp vàng
Tán tụng ân đức Phật
Ta nhìn thấy bảo tháp
Nhớ đến bảo tháp xưa
Ngồi trên một chỗ ngồi
Chứng đạt Alahán
Ta đi tìm đức Phật
Rồi ta được diện kiến
Vị Tướng quân chánh pháp
Ta từ bỏ gia đình
Đến xuất gia nơi Ngài
Ta chứng Alahán
Lúc chỉ mới bảy tuổi
Thế Tôn bậc Tuệ nhãn
Biết đức hạnh của ta
Cho ta thọ cụ túc
Việc cần làm, làm xong
Lúc hãy còn niên thiếu
Kính bạch Đại Ẩn Sĩ
Vị Thinh văn của Ngài
Vượt qua mọi trói buộc
Vượt qua mọi dính mắc
Lời Phật dạy làm xong.

Sau khi chứng quả Alahán, để tiếp độ các thí chủ, nên tôn giả không ngăn tứ sự lúc họ đem đến dâng cúng và tôn giả sống tri túc thọ dụng tứ sự ấy.

Các kẻ phàm phu tưởng rằng tôn giả là người nặng về việc trau chuốt thân, không lo phòng hộ tâm nên có thái độ khinh thường. Nhưng tôn giả không màng đến sự khinh thường ấy.Không xa chỗ tôn giả có một vị tỳ khưu giả dối, tâm tánh thấp hèn, sống đa dục nhưng lại biểu hiện như người thiểu dục, như người tri túc để gạt thế gian và nhiều người đã ca tụng vị ấy như bậc thánh.

Lúc bấy giờ, Thiên Chủ Đế Thích biết được sở hành của vị ấy, bèn đi đến tôn giả hỏi rằng:

"Kính bạch tôn giả, với vị tỳ khưu giả dối gọi là tạo nghiệp gì?"

Ðể chê trách sự ham muốn thấp hèn,tôn giả đã nói lên hai bài kệ rằng:

"Đối với người giả dối
Chúng tự giết mình trước
Sau đó giết kẻ khác
Với người giả dối ấy
Tự giết mình dễ dàng
Ví như thợ săn chim
Với bẫy bắt giết chim
Không phải Bàlamôn
Chỉ dung sắc bên ngoài
Vì là Bà lamôn
Còn dung sắc bên trong
Với ai làm ác nghiệp
Người ấy là hắc nhân
Này Sujampati
Ngài hãy biết như vậy".

*

29- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO TISSA

Được biết trưởng lão Tissa đã nói lên bài kệ rằng:

"Vị tỳ khưu đầu trọc
Đắp y Sanghati
Nhận cơm nước y phục
Chỗ nằm và chỗ ngồi
Tức là nhận kẻ thù"
"Khi thấy lợi lộc là
Mối nguy sợ như thế
Hãy là người thiểu dục
Tâm tư không tham nhiễm
Với chánh niệm đoạn trừ
Sự ham thích lợi lộc"

Trong thời giáo pháp của đức thế tôn Piyadassi, trưởng lão tái sanh trong một gia đình Bàlamôn.

Khi lớn lên, vị Bàlamôn đã thành thạo các học nghề, vì nhận thấy mối nguy hiểm của dục lạc, nên chàng từ bỏ đời sống thế tục xuất gia làm đạo sĩ, dựng lên một am thất trong khu rừng mun.

Một buổi sáng đức Thế Tôn dùng lưới tuệ của khắp thế gian nhìn thấy đạo sĩ hữu duyên, Ngài bèn ngự đến nơi ấy ngồi nhập thiền diệt tại một gốc cây không xa am thất của đạo sĩ.

Bấy giờ, vị đạo sĩ rời khỏi am thất để tìm trái cây, khi trở về nhìn thấy đức Thế Tôn đang nhập định, đạo sĩ phát tâm trong sạch đi tìm bốn khúc cây, cắm bốn gốc dựng lều, lấy nhánh mun đang lại, rồi lấy hoa phủ lên che mát đức Thế Tôn và ông đứng hầu suốt bảy ngày tâm tư đầy phỉ lạc với hình ảnh đức Phật.

Sanh ngày thứ bảy Đức Thế Tôn xả thiền diệt, Ngài tác ý đến 100.000 vị Thánh lậu tận, tức thì chư Thánh Thinh văn ấy ngự đến đoanh vây đức Thế Tôn.

Thế Tôn ngự tọa giữa Tăng chúng tuyên bố quả báo sẽ phát sanh cho đạo sĩ và thuyết pháp hoan hỷ, rồi Ngài cùng với chư Thinh văn ngự trở về tịnh xá.

Với thiện sự ấy sau khi mạng chung, đạo sĩ được sanh lên thiên giới.

Đến thời kỳ giáo pháp của đức Thế Tôn chúng ta, vị đạo sĩ tái sanh trong một gia đình Bàlamôn tải thành Rajagaha (Vương xá) có tên là Tissa.

Khi lớn lên, Tissa học xong ba tập phệ đà rồi dạy chú thuật cho 500 thanh niên Bàlamôn, nhờ vậy chàng rất dồi dào lợi lộc.

Một hôm, đức Thế Tôn du hành đến thành Raja-gaha, nhìn thấy Thế Tôn đầy đủ 32 đại nhân tướng, lục căn thanh tịnh, gương mặt từ hòa khả kính bước đi nhẹ nhàng thoát tục, bị cảm hóa bởi uy đức của bậc Đạo Sư, chàng khước từ mọi thế lợi và xin xuất gia trong giáo pháp.

Sau khi xuất gia, nhờ thiện duyên giải thoát chín muồi, cùng với sự nhiệt tâm hành pháp, ít lâu sau, tôn giả chứng đạt Alahán.

Tôn giả kể lại giai thoại nầy trong tập Apadana như sau:

"Ta vào rừng cây mun
Dựng am thất trang nhã
Che lợp bằng hoa mun
Rồi Đức Chánh Đẳng Giác
Bậc thương nhân thế gian
Đã tự mình giác ngộ
Tên Piyadassi
Với mục đích tiếp độ
Ngài ngự đến rừng mun
Bấy giờ ta rời am
Đi tìm quả cây rừng
Ta nhìn thấy Thế Tôn
Tên Piyadassi
Bậc có đại uy danh
Đang an nhiên nhập định
Chói sáng giữa rừng già
Ta phát tâm trong sạch
Tìm cây về làm lều
Lấy hoa mun kết lại
Che phía trên Thế Tôn
Mỗi ngày thay hoa mới
Cứ thế suốt bảy ngày
Ta vô cùng thỏa thích
Với thiện sự mình làm
Rồi Đức Chánh Đẳng Giác
Bậc thượng nhân thế gian
Sau khi xã đại định
Ngài đưa mắt nhìn quanh
Tức thì đại Thinh văn
Đệ tử của Thế Tôn
Tên là Varuna
Cung một muôn Thánh Tăng
Alahán vô lậu
Đến yết kiến Thế Tôn
Rồi bậc Đại Ẩn Sĩ
Tên Piyadassi
Đang ngồi giữa chư Tăng
Ngài nhẹ nở nụ cười
Vị tỳ khưu thị giả
Tên Anuruddha
Thấy sự kiện hy hữu
Đắp một y bên vai
Đến đảnh lễ thưa rằng
Kính bạch đức Thế Tôn
Khi có nhân có duyên
Thế Tôn mới mỉm cười
Vậy do nhân duyên gì?
Ở đây Ngài mỉm cười
Bậc Đạo Sư phán rằng
Với người nào dựng liều
Che mát bằng bông hoa
Trong suốt bảy ngày qua
Nghĩ đến nghiệp người ấy
Ta mới nở nụ cười
Ta quán chiếu thấy rằng
Thiện nghiệp người ấy tạo
Sẽ trổ quả bất tận
Trong hai cõi nhân thiên
Dù tái sanh cõi nào
Người ấy cũng đầy đủ
Với tài sản cao sang
Đây chính là kết quả
Của việc cúng dường Phật
Trong kiếp 1.800
Có đức Chánh Đẳng Giác
Ngự sanh trên thế gian
Người nầy sẽ thừa tự
Giáo pháp của Thế Tôn
Biến tri các phiền não
Đạt vô lậu niết bàn
Trong lúc pháp tỏ ngộ
Có mái che hoa mun
Và trong khi viên tịch
Bên trên đài hỏa táng
Cũng có mái hoa mun
Sau khi đại Ẩn sĩ
Tên Piyadassi
Nói lên quả dị thục
Ngài thuyết giảng chánh pháp
Khiến hội chúng thấm nhuần
Với mưa pháp bất tử
Rồi Ngài cùng chư tăng
Ngự trở về tịnh xá
Ta được làm Thiên vương
Trải suốt ba mươi kiếp
Sáu mươi bảy lần sanh
Làm vị Chuyển Luân Vương
Khi ta rời thiên giới
Tái sanh trong cõi người
Ta đầy đủ an lạc
Dù trong cõi nhân lọai
Cũng có mái hoa mun
Đây chính là kết quả
Của việc làm lều che
Và trong kiếp cuối cùng
Mái che bằng hoa mun
Phát sanh suốt cho ta
Ta làm cho Thế Tôn
Gotama hoan hỷ
Ta từ bỏ thắng bại
Chứng đạt pháp bất động
Trong kiếp 1.800
Ta cúng dường Phật bảo
Do việc cúng dường ấy
Ta không biết khổ cảnh
Đây chính là kết quả
Của việc cúng dường Phật
Ta thiêu đốt phiền não
Lời Phật dạy làm xong".

*

Sau khi chứng quả Alahán, tôn giả trở thành vị thù thắng về lợi lộc, thù thắng về danh xưng.

Lúc bấy giờ có một số vị phàm tăng, thấy tôn giả được lợi lộc, tôn trọng như thế, do mê muội thiếu trí nên đã có những thái độ không thích đáng, tôn giả Tissa thấy vậy, để tuyên bố sự nguy hiểm trong lội lộc trọng vọng và để minh thị mình không dính mắc lợi lộc trọng vọng ấy, tôn giả đã nói lên hai bài kệ rằng:

"Vị tỳ khưu đầu trọc
Đắp y Sanghati
Nhận cơm nước y phục
Chỗ nằm và chỗ ngồi
Tức là nhận kẻ thù"
"Khi thấy lợi lộc là
Mối nguy sợ như thế
Hãy là người thiểu dục
Tâm tư không tham nhiễm
Với chánh niệm đoan trừ
Sự ham thích lợi lộc".

*

30- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO VALLIYA

Được biết trưởng lão Valliya nói lên bài kệ như vầy:

"Phận sự nào cần làm
Với tinh cần nổ lực
Phận sự nào cần làm
Với người muốn giác ngộ
Con sẽ làm tất cả
Đúng theo lời Ngài dạy
Hãy xem sự tinh cần
Sự nổ lực của con"
"Xin hãy nói cho con
Con đường đến bất tử
Như dòng sông Ganga
Xuôi chảy ra biển cả".

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Sumedha, trưởng lão được tái sanh trong một gia đình Bà la môn trưởng giả.

Vị trưởng giả nầy rất thông minh và chăm học, khi vừa trưởng thành, chàng đã thông đạt các chú thuật cùng các học nghệ của giáo điển Bà la môn.

Sau khi cha mẹ qua đời, chàng chán ngán cuộc sống thế tục, đem tất cả tài sản trong kho trị giá tám trăm triệu, bố thí giúp đở cho những người ăn xin, những người nghèo khổ, rồi xuất gia làm đạo sĩ, dựng lên một am thất cạnh bờ sông.

Một hôm do duyên lành của đạo sĩ, Đức Thế Tôn đã ngự đến chỗ ấy, đạo sĩ nhìn thấy Thế Tôn với bước đi thanh thoát nhẹ nhàng, với lục căn thanh tịnh, sáng chói đầy uy đức. Đạo sĩ phát khởi lòng tịnh tín, trãi tấm da cọp làm tọa cụ cúng dường đến Thế Tôn rồi thỉnh Ngài ngự tọa trên tấm da ấy, Đạo sĩ với tâm trong sạch tôn kính, lấy hoa và hương chiên đàn rãi cúng dường, rồi đạo sĩ chọn lấy những trái xòai to thơm ngon cúng dường Đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn sau khi thọ dụng xong, Ngài đã nói lời phúc chúc và tiên tri những thành quả trong tương lai của đạo sĩ, rồi Ngài ngự trở về tịnh xá.

Với công đức ấy, sau khi mạng chung vị đạo sĩ được sanh lên thiên giới, luân chuyển giữa hai cõi trời và người, đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, vị đạo sĩ được sanh trong một gia đình Bà la môn, tại thành Vesali cha mẹ đặt tên là Kanhamitta.

Khi trưởng thành, một lần nọ, lúc Đức Thế Tôn ngự đến thành Vesali, được cảm hóa bởi uy đức của Ngài, Kanhamitta đã khởi lên niềm tin và xin xuất gia nơi trưởng lão Mahakaccana.

Do trí tuệ chậm chạp và thiếu sự tin tấn, cho nên tôn giả Kanhamitta phải nương vào kiến thức cùng kinh nghiệm của các đồng phạm hạnh, đến nổi các vị tỳ khưu gọi tôn giả là Valliya (loài chùm gởi) vì tôn giả không thể tự tiến hóa nếu không nương tựa vào các cây khác như loài chùm gởi phải nương tựa vào một cây khác mới phát triển được nếu không thì không thể phát triển được.

Rồi một hôm, tôn giả Valliya đi đến chỗ trưởng lão Venudatta, sau khi tín thọ lời giáo giới của trưởng lão, sự sáng suốt trong lòng tôn gia như trổi dậy và với trí tuệ chín muồi, tôn giả đã hỏi trưởng lão với hai bài kệ rằng:

"Phận sự nào cần làm
Với tinh cần nổ lực
Phận sự nào cần làm
Với người muốn giác ngộ
Con sẽ làm tất cả
Đúng theo lời ngài dạy
Hãy xem tự tinh cần
Sự nỗ lực của con"
"Xin hãy nói cho con
Con đường đến bất tử
Con sẽ biết với tuệ
Như dòng sông Ganga
Xuôi chảy ra biển cả".

*

Sau khi nghe hai bài kệ thỉnh cầu của tôn giả Valliya, trưởng lão Venudatta đã chỉ dạy con đường pháp hành đến tôn giả, an trú vào lời dạy ấy, tôn giả nổ lực phát triển thiền quán và chứng đạt Ala hán ngay sau đó.

"Ta từ bỏ dục lạc
Khả ái và khả hỷ
Ta dứt bỏ tài sản
Trị giá tám trăm triệu
Xuất gia làm đạo sĩ
Ngăn trừ thân ác hạnh
Trú tại một bờ sông
Một hôm Đức Thế Tôn
Hồng danh Sumedha
Bậc Thượng nhân thế gian
Ngự đến bờ sông ấy
Dù không biết là Phật
Nhưng với uy đức Ngài
Khiến lòng ta tôn kính
Ta đã tiếp rước Ngài
Sau khi tiếp rước xong
Ta bạch hỏi như sau
Kính bạch Bậc Sa môn
Ngài là vị chư thiên
Hay là Gandhabha
Hay Thiên vương Đế thích
Hoặc đức đại Phạm thiên
Với hào quang tỏa sáng
Như mặt trời ban ngày
Kính bạch bậc ly khổ
Vòng bánh xe ngàn căm
In dưới bàn chân Ngài
Xin hỏi Ngài là ai
Ngài là con của ai
Xin hãy nói tên họ
Cho con hết nghi hoặc
Thế Tôn bèn đáp rằng
Ta không phải chư thiên
Không phải Gandhabha
Không phải đức Đế thích
Và Phạm thiên cũng không
Ta cao hơn Phạm thiên
Vượt khỏi Phạm thiên tánh
Đoạn trừ các phiền trược
Thiêu đốt các phiền não
Chứng đạt Chánh giác trí
Sau khi nghe Ngài phán
Ta quỳ xuống thưa rằng
Kính bạch Đại Ẩn Sĩ
Nếu Ngài là toàn giác
Xin thỉnh Ngài ngự tọa
Con xin cúng dường Ngài
Xin Ngài hãy tiếp độ
Cho con dứt khổ đau
Ta trải tấm da cọp
Cúng dường Bậc Đạo Sư
Đức Thế Tôn ngự tọa
Trên tấm da cọp ấy
Ví như sư tử chúa
Ngồi giữa hang núi vậy
Với duyên lành chín muồi
Ta đi đến giáo pháp
Tu tập không bao lâu
Ta cũng được chứng đạt
Quả vị Alahán
Ta truy tìm tiền nghiệp
Không thấy những kiếp gần
Nhưng nhớ được thiện nghiệp
Trong kiếp ba mươi ngàn
Kính bạch Đức Thế Tôn
Con xin đãnh lễ Ngài
Nương lời dạy của Ngài
Con mời được giác ngộ
Trong kiếp ba mươi ngàn
Ta cúng dường Phật nào
Do việc cúng dường ấy
Ta không biết khổ cảnh
Đây chính là kết quả
Của việc cúng dường Phật
Nay là kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phìên não
Lời Phật dạy làm xong".

*

31- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO SABBAMITTA

Được biết trưởng lão Sabbamitta đã nói lên bài như vầy:

"Người trói buộc trong người
Người luyến ái với người
Người bị người tổn hại
Và người tổn hại người"
"Lợi ích gì cho người
Nơi những điều người tạo
Hãy từ bỏ tất cả
Sự tổn hại nhiều người".

Ngược dòng thời gian cách nay 92 kiếp, vào thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Tissa, vị trưởng lão nầy tái sanh trong một gia đình thợ săn.

Hằng ngày, cha và ông phải vào rừng săn thú để nuôi gia đình. Khi lớn lên chàng cũng tập tễnh theo cha vào rừng để phụ giúp và học cách săn thú.

Một hôm, vào rạng sáng Đức Thế Tôn dùng lưới tuệ, bủa khắp thế gian xem chúng sanh nào hữu duyên để tiếp độ, chàng thợ săn nằm trong lưới tuệ của Ngài.

Thế là sáng hôm ấy, Đức Thế Tôn đắp y, cầm bát ngự đến một con đường gần nhà của chàng thợ săn, sau đó Ngài đã để lại ba dấu chân.

Lúc bấy giờ, chàng thợ săn rời khỏi nhà vào rừng tìm thú, chàng nhìn dấu chân có hình bánh xe, do trong quá khứ từng gieo duyên với Chư Phật, nên khi nhìn thấy dấu chân Phật, chàng khởi lên ý nghĩ rằng: "Đây là dấu chân của bậc đáng tôn kính, đáng cúng dường". Rồi chàng muốn tìm một cái gì để cúng dường, đi loanh quanh chàng nhìn thấy cây mào gà đang trổ bông xinh đẹp, chàng vội đi đến hái lấy nhánh bông mào gà đến cúng dường dấu chân Phật với tấm lòng hoan hỉ..

Do thiện sự ấy, sau khi mạng chung, chàng thợ săn được sanh lên cõi Đạo Lợi. Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, chàng thợ săn tái sanh trong một gia đình Bà la môn tại thành Savatthi và được đặt tên là Sabbamitta.

Trong buổi lễ cúng dường Kỳ Viên tịnh xá của trưởng giả Cấp Cô Độc, Sabbamitta cũng có mặt, nhìn thấy uy đức của Bậc Đạo Sư chàng khởi lên niềm tin và xuất gia.

Sau khi xuất gia Sabbamitta học một đề tài thiền quán và đi sâu vào trong rừng ẩn cư để tu tập, sau ba tháng an cư mùa mưa, tôn giả Sabbamitta đi về thành Savatthi yết kiến Đức Thế Tôn.

Trên đường đi, tôn giả nhìn thấy một chú nai con sa vào bẩy của người thợ săn, nai mẹ tuy không bị vướng bẩy, nhưng nó không thể đi xa, cứ quanh quẩn gần đó vì quyến luyến nai con và nó cũng không dám đến gần vì sợ mắc bẩy như nai con. Phần vì nai con quá hoảng sợ nó lăn qua, lộn lại, kêu lên những tiếng thảm thương.

Tôn giả thấy vậy suy nghĩ rằng: "Ôi! Tình thương đã đem lại sự đau khổ cho các loài hữu tình".

Đi một đổi nữa, tôn giả nhìn thấy nhiều tên cướp đang lấy rơm bó vào một người chúng bắt được để đem thiêu sống và người ấy sợ hãi kêu la thống thiết. Chứng kiến hai sự kiện bi thảm, tôn giả Sabbamitta bị động tâm bèn nói lên hai bài kệ với các tên cướp rằng:

"Người trói buộc trong người
Người luyến ái với người
Người bị người tổn hại
Và người tổn hại người"
"Lợi ích gì cho người
Nơi những điều người tạo
Hãy từ bỏ tất cả
Sự tổn hại nhiều người".

Nói vậy xong, tôn giả phát triển thiền quán, chứng đạt Alahán liền sau đó.

Như trong Apadana, tôn giả đã nói lên bài kệ rằng:

"Thuở trước ta và cha
Cùng ông đi săn thú
Sinh kế nghề giết thú
Thiện nghiệp ta không có
Một hôm, trên con đường
Gần trú xứ ta ở
Thế Tôn bậc tối thượng
Hồng danh là Tissa
Vì muốn tiếp độ ta
Ngài ngự đến chỗ ấy
Để lại ba dấu chân
Nhìn thấy những dấu chân
Của bậc đáng tôn kính
Ta vô cùng hoan hỉ
Trong sạch dấu chân Phật
Nhìn thấy cây mào gà
Đang trổ bông xinh đẹp
Ta hái đến cúng dường
Dấu chân bậc tôn kính
Chính do thiện sự ấy
Sau khi ta mạng chung
Đựoc sanh cõi đạo lợi
Trong các kiếp tái sanh
Ta luôn có nước da
Như màu bông mào gà
Thật mịn màng tươi sáng
Trong kiếp thứ chín hai
Kể từ hiền kiếp này
Ta tạo thiện nghiệp nào
Chính do thiện nghiệp ấy
Ta không biết khổ cảnh
Đây chính là kết quả
Cúng dường dấu chân Phật
Nay là kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não
Lời Phật dạy làm xong".

Các tên cướp sau khi nghe pháp từ nơi tôn giả, bị xúc cảm mạnh đã từ bỏ mọi ác hạnh và xuất gia thực hành theo chánh pháp.

*

32- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NANDA

Được biết trưởng lão Nanda đã nói lên bài kệ như vầy:

"Ta mê việc trang sức
Không như lý tác ý
Tâm thô tháo giao động
Bị tham dục não hại"
"Ta chơn chánh thực hành
Theo lời dạy Đức Phật
Bậc bà con mặt trời
Thiện xảo trong phương pháp
Bứng tâm đang chìm đắm
Khỏi sanh hữu (khổ đau)".

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumut-tara, vị trưởng lão nầy tái sanh trong một gia đình Bà la môn giàu có.

Một hôm, khi đến nghe pháp nơi Đức Thế Tôn, chàng nhìn thấy Đức Thế Tôn biểu dương một tỳ khưu đệ nhất về hạnh thu thúc các căn, thỏa thích với hình ảnh đó, chàng đã cung thỉnh Đức Phật cùng chư tỷ khưu Tăng về nhà cúng dường đại thí, sau khi phục vụ Đức Phật cùng chư tỳ khưu Tăng với các món ăn thượng vị, chàng Bà la môn nầy đã phủ phục duới chân Đức Thế Tôn và chú nguyện rằng:

"Do phước báu mà hôm nay con đã trong sạch cúng dường, trong thời giáo pháp của Đức Phật tương lai, xin cho con được thành tựu giống như vị tôn giả kia vậy".

Sau khi mạng chung từ kiếp ấy, chàng được tái sanh lên nhàn cảnh, luân chuyển giữa cõi trời và người một thời gian dài cho đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Atthadassi. Chàng tái sanh làm một con rùa lớn tại dòng sông Vinta.

Một hôm, Đức Thế Tôn ngự đến bờ sông Vinta để sang bên kia,, chú rùa thấy vậy, có ý muốn đưa Đức Thế Tôn qua sông, bèn bơi đến phủ phục bên chân Ngài. Đức Thế Tôn biết được tâm ý của nó, Ngài đã ngự lên lưng rùa. Chú rùa vô cùng thỏa thích, bơi chẻ dòng nước đưa Đức Thế Tôn sang bên kia sông một cách nhanh chóng, Đức Thế Tôn bèn nói lời tùy hỷ cùng quả báu sẽ phát sanh cho rùa rồi Ngài rời khỏi nơi ấy.

Do thiện sự đó, sau khi mạng chung, rùa được thoát khỏi kiếp cầm thú và sanh lên nhàn cảnh, đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta rùa được tái sanh vào bào thai của nàng Mahapajapatigotami, thái tử của đức vua Sudhodana (Tịnh Phạn) (em cùng cha khác mẹ với Đức Bồ tát) tại thành Kapilavatthu.

Vào ngày đặt tên cho thái tử, các vị trong hoàng tộc đặt tên là Nanda vì thái tử chào đời, là một niềm vui lớn cho quyến thuộc. Khi thái tử Nanda trưởng thành, lúc bấy giờ Đức Thế Tôn đã vận chuyển bánh xe chánh pháp đi tiếp độ quần sanh, Ngài tuần tự du hành trở về thành Kapilavatthu. Tại đây Ngài đã làm cho Pokkhara-vassa - mưa sen (mưa nầy thành tựu do thần thông, không bị thấm ướt, như nước rơi trên lá sen vậy) rơi xuống để tiếp độ quyến thuộc đang câu hội lấy mưa làm duyên, Ngài thuyết bổn sanh Vessantara. Rồi Ngài ngự đi khất thực.

Trong này thứ hai, Đức Thế Tôn giúp cho phụ vương chứng quả Dự Lưu với bài kệ rằng:

"Uttitthe nappamajjeyya – không nên dễ duôi trong việc khất thực mà hãy tự đứng thọ nhận...

Rồi Đức Thế Tôn ngự vào hoàng cung giúp dì mẫu Mahapajipati Gotami trú trong sơ quả và phụ vương trú trong Nhất lai quả với bài kệ rằng:

"Hãy sống theo phạm hạnh..."

Ngày thứ ba khi nghi thức rước công chúa vào hoàng cung nhân dịp lễ đăng quang của thái tử Nanda đang diễn ra, Đức Thế Tôn ngự vào khất thực, Ngài bèn giao cái bát cho thái tử Nanda, nói lời phúc chúc xong, Ngài không nhận lại bát mà ngự về tịnh xá, thái tử Nanda phải ôm bát đi theo Đức Phật đến tịnh xá, dầu trong lòng không muốn.

Sau khi về đến tịnh xá, Đức Thế Tôn bèn cho thái tử Nanda xuất gia, vì tôn kính Đức Phật, nên thái tử đành phải chấp thuận, nhưng Nanda không thể hoan hỷ với đời sống phạm hạnh, Đức Thế Tôn biết được tâm trạng của Nanda, nên Ngài đã dùng nhiều phương pháp giáo hóa cho đến khi tâm tư của Nanda thuần khiết và thể nhập pháp, rồi tôn giả Nanda hoan hỷ với đời sống phạm hạnh và đã tự minh nhiệt tâm tinh cần phát triển tuệ quán chứng đạt Alahán.

Như trong Apadana tôn giả đã nói lên bài kệ rằng:

"Đức Chánh Đẳng Giác
Hồng danh Atthadassi
Bậc dẫn dắt thế gian
Ngự đến sông Vinta
Bấy giờ ta là rùa
Sống tại sông Vinta
Ta thấy Đức Thế Tôn
Ngự xuống mé sông ấy
Ta bơi dến phủ phục
Bên chân của Thế Tôn
Với dòng tư tưởng rằng:
"Xin thỉnh Đại Ẩn Sĩ
Hồng danh Atthadassi
Hãy ngự lên lưng con
Con đưa Ngài sang sông
Xin Ngài hãy bi mẫn
Tế độ con hết khổ"
Bấy giờ Đức Thế Tôn
Hồng danh Atthadassi
Biết được tâm ý ta
Ngài bèn ngự lên lưng
Khi bàn chân của Phật
Chạm lên lưng của ta
Khiến ta đầy phỉ lạc
Ta bơi như tên bắn
Chẻ dòng nước thật nhanh
Rồi Đức Chánh Đẳng Giác
Sau khi ngự lên bờ
Đã phán bài kệ rằng
Ta vượt qua dòng nước
Chớp nhoáng như tâm đi
Chính rùa chúa hữu phúc
Đưa Như Lai sang sông
Do thiện sự chở Phật
Và sống có tâm từ
Sẽ hưỡng lạc thiên giới
Suốt 1.800 kiếp
Thác sanh từ thiên giới
Đi đến cõi nhân loại
Được thiện căn dẫn dắt
Ngồi tại một chỗ ngồi
Sẽ vượt qua bộc lưu
Hạt giống tuy chút ít
Nhưng gieo trên ruộng tốt
Mưa rơi xuống thích hợp
Quả trổ sanh hoan hỉ
Với Phật vức cũng vậy
Khi gieo vào thích hợp
Quả khiến ta hoan hỉ
Ta trú với tinh cần
An tịnh, không sanh y
Đoạn trừ các kiết sử
Chấm dứt các lậu hoặc
Trong kiếp 1.800
Ta đã tạo nghiệp nào
Chính do thiện nghiệp ấy
Ta không biết khổ cảnh
Đây chính là kết quả
Nay là kiếp cuối cùng
Việc đưa Phật qua sông
Ta thiêu đốt phiền não
Lời Phật dạy làm xong".

Sau khi chứng quả Alahan, tôn giả quán lại các kiết sử mà mình đã đoạn trừ và sự an lạc giải thoát mà mình đạt chứng được, đã thốt lên lời rằng:

"Ôi, vi diệu thay sự thiện xảo trong phương pháp giáo hóa của Bậc Đạo Sư, Ngài đã đưa ra khỏi đầm lầy sanh tử và đứng trên bờ tịnh lạc niết bàn, hân hoan với thành quả, tôn giả đã nói lên hai bài kệ rằng:

"Ta mê việc trang sức
Không như lý tác ý
Tâm thô tháo dao động
Bị tham dục não hại"
"Ta chơn chánh thực hành
Theo lời dạy Đức Phật
Bậc bà con mặt trời
Thiện xảo trong phương pháp
Bứng tâm đắm, đang chìm
Khỏi sanh hữu (khổ đau)".

*

33- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO BHADDAJI

Được biết trưởng lão Bhaddaji đã nói lên bài kệ rằng:

"Đức vua Panada
Có cung điện bằng vàng
Rộng đến nữa do tuần
Cao 25 do tuần"
"Với một ngàn tầng cấp
Và một trăm nóc tròn
Từng hàng cờ phất phới
Đính với ngọc Mani
Màu xanh cùng màu vàng
Trong Đại cung điện ấy
Sáu ngàn Gandhabba
Được chia thành bảy đoàn
Thay phiên nhau ca múa"

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumut-tara, vị trưởng lão nầy tái sanh trong một gia đình Bà la môn.

Khi lớn lên đã thông thạo các học nghệ của Bà la môn, do căn lành trưởng dưỡng nhiều đời nhiều kiếp, nên vị Bà la môn nầy cảm thấy chán ngán mùi dục lạc, từ bỏ mọi ràng buộc nhân thế, xuất gia làm đạo sĩ và dựng lên một am thất trong rừng sâu.

Một hôm nhìn thấy Đức Thế Tôn đang phi hành trên hư không, đạo sĩ phát khởi tịnh tín đứng chấp tay hướng về Đức Thế Tôn, biết được căn duyên của đạo sĩ, Ngài bèn ngự xuống, đạo sĩ vô cùng hoan hỉ cung thỉnh Đức Thế Tôn ngự toạ, rồi lấy mật ong, bơ, sữa, củ sen cúng dường. Đức Thế Tôn với lòng bi mẫn tiếp độ đạo sĩ, nên Ngài đã thọ nhận và nói lời phúc chúc tùy hỷ.

Do thiện nghiệp ấy, sau khi mạng chung, vị đạo sĩ được sanh lên cõi trời Đâu Xuất. Suốt khoảng thời gian dài với nhiều vị Chánh Đẳng Giác ra đời, vị đạo sĩ nầy chỉ luân chuyển trong cõi Đâu Xuất.

Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Vipassi, vị đạo sĩ tái sanh trong một gia đình trưởng giả đại phú.

Với thiện căn trưởng dưỡng, nên sau khi lớn lên vị trưởng giả tử nầy hết lòng tịnh tín nơi tam bảo và trở thành một cận sự nam nhiệt thành phụng sự cho tam bảo.

Một lần nọ, chàng đã cung thỉnh Đức Thế Tôn Vipassi cùng 68.000 chư tỳ khưu Tăng về nhà cúng dường trọng thể và chàng đã dâng đến Đức Phật cùng chư Tăng mỗi vị một bộ tam y.

Sau kiếp sống ấy, với thiện nghiệp tạo trữ nhiều như thế, vị trưởng giả này được tái sanh lên thiên giới, hưởng thiên lạc thù diệu trên cõi trời cho đến khi tuổi thọ đã mãn. Chàng tái sanh xuống cõi người, trong một gia đình Bà la môn giàu có.

Lúc bấy giờ, là ngoài thời kỳ giáo pháp của Đức Chánh Đẳng Giác, mặc dù không được cơ hội nghe những lời pháp vi diệu từ Đức Thế Tôn để phát sanh lòng tịnh tín nhưng do căn lành đã khéo vun bồi, nên khi gặp chư Phật Độc Giác với lục căn thanh tịnh sáng chói, niềm tịnh tín kia đã trỗi dậy một cách mãnh liệt và chàng đã nhiệt thành hộ độ 500 vị Độc Giác Phật với đầy đủ bốn món vật dụng.

Mạng chung từ kiếp ấy, chàng được tái sanh làm thái tử, sau khi trưởng thành, thái tử kế nghiệp phụ vương trị vì quốc độ.

Đức vua đã trị vì đất nước theo thiện pháp và hằng ngày đức vua hộ độ cho một vị Phật Độc Giác.

Sau khi Đức Độc Giác Phật niết bàn, đức vua làm lễ hỏa táng kim thân Phật rất trọng thể, Ngài đã giữ lại xá lợi và xây bảo tháp tôn thờ.

Sau khi mạng chung đức vua được sanh lên nhàn cảnh, luân chuyển sanh tử trong nhàn cảnh cho đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, đức vua được tái sanh làm con trai độc nhất của trưởng giả Bhaddaji với gia sản 800 triệu, tại thành Bhaddaji và có tên là Bhaddaji.

Bhaddaji sống trong sự giàu sang và được nuôi dưỡng thật tế nhị, chu đáo như vị bồ tát kiếp chót vậy.

Lúc bấy giờ, Đức thế Tôn đang nhập hạ tại thành Savatthi ra hạ, Ngài cùng với đại chúng tỳ khưu ngự đến thành Bhaddaji, để tiếp độ công tử Bhaddaji. Trong thời gian chờ đợi trí tuệ của công tử Bhaddaji chín muồi, Đức Thế Tôn ngự tại rừng Jatiya.

Một hôm, công tử Bhaddaji đang ngồi trên lầu của toà lâu đài, trong lúc đang ngắm cảnh, nhìn thấy từng đoàn ngừời kéo nhau đi về phía rừng Jatiya. Lấy làm ngạc nhiên, công tử mới hỏi những người hầu:

"Những đoàn người ấy đi đâu vậy ?"

Người hầu đáp rằng:

"Thưa công tử, những người ấy đi đến rừng Jatiya để thính pháp nơi Đức Thế Tôn".

Lúc bấy giờ, trong lòng Bhaddaji cảm thấy thôi thúc với việc nghe pháp. Thế rồi, Bhaddaji cùng đông đảo tùy tùng đi đến chỗ Đức Thế Tôn với trí tuệ chín muồi, nên vừa dứt thời pháp, công tử Bhaddaji đã chứng quả Alahán.

Như trong Apadana tôn giả đã nói lên bài kệ rằng:

"Ta bước xuống ao nước
Nơi loài voi thường uống
Nhổ lên những củ sen
Dùng để làm thực phẩm
Bấy giờ Đức Thế Tôn
Padumuttara
Mặc y Kambala đỏ
Ngự hành trên hư không
Ta nghe tiếng y phất
Bèn ngước mặt lên nhìn
Ta thấy Bậc Đạo Sư
Với chân đứng dưới ao
Ta van xin Ngài rằng
Kính bạch Đại Ẩn Sĩ
Nước mật đang chảy ra
Từ nhụy sen thanh khiết
Chất sữa và chất bơ
Chảy ra từ củ sen
Xin thỉnh bậc tuệ nhãn
Hãy từ bi thọ nhận
Để tiếp độ cho con
Thế rồi, Đức Chánh Giác
Đầy đủ lòng bi mẫn
Ngự xuống từ hư không
Thọ thực phẩm ta dâng
Với mục đích tiếp độ
Xong rồi Ngài tùy hỷ
Phúc chúc cho ta rằng
Hỡi nầy người đại phước
Mong người sẽ an lạc
Do tấm lòng trong sạch
Cúng dường củ sen nầy
Ngươi sẽ được hạnh phúc
Và tràn đầy an lạc
Rồi Đức Chánh Đẳng Giác
Padumuttara
Sau khi phúc chúc xong
Ngài ngự lên hư không
Còn ta cầm củ sen
Trở về am thất mình
Đặt củ sen trên cây
Niệm tưởng đến phước thí
Rồi một trận cuồng phong
Thổi rung chuyển bầu trời
Như sấm sét chấn động
Từ đâu một vật nhọn
Rơi xuống trúng đầu ta
Ta mạng chung từ đấy
Với phước lành đầy đủ
Ta sanh cõi Đâu Xuất
Thi thể ta bỏ lại
Còn ta hưởng thiên lạc
Tám bốn vạn thiên nữ
Hầu hạ phục vụ ta
Đây chính là kết quả
Việc cúng dường củ sen
Khi sanh xuống cõi người
Ta là người an lạc
Với tài sản sung túc
Đây chính là kết quả
Việc cúng dường củ sen
Do được Phật tiếp độ
Các lậu hoặc không còn
Sanh hữu mới đã tận
Trong kiếp một trăm ngàn
Kể từ hiền kiếp nầy
Ta cúng dường vật gì
Do sự cúng dường đó
Ta không biết khổ cảnh
Đây chính là kết quả
Việc cúng dường củ sen
Nay là kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não
Lời Phật dạy làm xong".

Sau khi công tử Bhaddaji chứng quả Alahán, Đức Thế Tôn cho mời trưởng giả Bhadiya đến phán rằng:

"Nầy trưởng giả Bhadiya, con của ngươi sau khi nghe chánh pháp đã chứng đạt Alahán, vì vậy công tử cần phải được xuất gia, nếu không xuất gia sẽ phải niết bàn".

Trưởng giả thưa rằng:

"Kính bạch Đức Thế Tôn, Bhaddaji hãy còn trẻ, không nên niết bàn sớm xin Ngài hãy xuất gia cho".

Đức Thế Tôn đã làm lễ xuất gia truyền cụ túc giáo giới cho công tử Bhaddaji xong, Ngài ngự tại thành Bhaddiya suốt bảy ngày rồi Ngài cùng chư Tăng ngự đến Kotigama gần bờ sông Ganga. Tại đây, dân làng đã tổ chức cúng dường trọng thể đến chư tăng có Đức Phật làm tọa chủ.

Khi Đức Thế Tôn sắp nói lời tuỳ hỷ phúc chúc, tôn giả Bhadaji ben rời khỏi làng với ý định rằng:

"Ta sẽ nhập thiền", rồi đi đến bờ sông Ganga, ngồi thiền tịnh.

Một lúc sau, có các vị trưởng lão đi đến, nhưng tôn giả vẫn an nhiên thiền tịnh, khi Đức Thế Tôn ngự đến tôn giả mới xã thiền.

Bấy giờ, các vị tỳ khưu phàm phu thấy vậy mới chỉ trích rằng:

"Tỳ khưu Bhaddaji nầy mới vào tu, mà trở thành người kiêu mạn, khi các vị trưởng lão đi đến, không chịu xã thiền".

Lúc ấy, dân làng Kotigama chuẩn bị nhiều chiếc tàu để đưa Đức Phật cùng chư Tăng qua sông. Đức Thế Tôn mới suy nghĩ rằng:

"Nhân dịp nầy ta sẽ cho mọi người thấy uy lực của Bhaddaji".

Rồi Ngài ngự đứng trên tàu, phán hỏi rằng: "Bhad-daji đâu ?".

Tôn giả Bhaddaji đáp rằng:"Con đang ở đây-bạch Thế Tôn".

Rồi tôn giả đi đến chỗ Đức Thế Tôn đứng chấp tay chờ đợi. Đức Thế Tôn phán rằng: "Hãy đến, nầy Bhad-daji, ngươi hãy lên cùng một chiếc tàu với Như Lai".

Tôn giả Bhaddaji vâng lời Đức Thế Tôn bay lên đứng trên chiếc tàu Đức Thế Tôn đang ngự. Khi tàu ra giữa sông, Đức Thế Tôn phán rằng:

"Nầy Bhaddaji, cung điện vàng mà ngươi từng ở khi sanh làm vua Mahapanada hiện ở đâu ?".

Tôn giả Bhaddaji thưa rằng:

"Dạ đang chìm dưới đây, bạch Đức Thế Tôn".

Đức Thế Tôn phán rằng:

"Nầy Bhaddaji, nếu vậy ngươi hãy phá tan mối nghi hoặc của các bạn đồng phạm hạnh đi".

Lúc bấy giờ, tôn giả tiến đến đãnh lễ Đức Thế Tôn rồi với uy lực thần thông của mình, tôn giả đưa cả toà cung điện lên bằng ngón chân cái, rồi nâng tòa cung điện cao 25 do tuần bay lên hư không vượt khỏi mặt nước.

Lúc ấy, các quyến thuộc trong tiền kiếp của tôn giả sanh làm cá, làm rùa, làm ếch do sự dễ duôi tham luyến đang ở trong tòa cung điện ấy bị rơi lộp độp xuống nước. Đức Thế Tôn thấy vậy bèn phán rằng: "Nầy Bhaddaji

Các quyến thuộc của ngươi sẽ phải khổ sở".

Tôn giả hiểu ý Đức Thế Tôn, bèn thả tòa cung điện xuống nằm yên chỗ cũ.

Sau khi lên bờ, chư tỳ khưu mới bạch hỏi rằng:

"Kính bạch Đức Thế Tôn, cung điện nầy tôn giả Bhaddaji đã ở khi nào?".

Đức Thế Tôn bèn thuật lại bổn sanh Mahapanada và Ngài khiến cho hội chúng thấm nhuần với chánh pháp.

Kế đó, sau khi trình bày về cung điện vàng mà mình đã từng trú ngự, tôn giả đã nói lên bài kệ rằng:

"Đức vua Panada
Có cung điện bằng vàng
Rộng đến nửa do tuần
Cao hai lăm do tuần"
"Với một ngàn tầng cấp
Và một trăm nóc tròn
Từng hàng cờ phất phới
Đính với ngọc Mani
Màu xanh cùng màu vàng
Trong đại cung điện ấy
Sáu ngàn Gandhabha
Được chia thành bảy đoàn
Thay phiên nhau ca múa".

*

34- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO SOBHITA

Được biết trưởng lão Sobhita đã nói lên bài kệ rằng:

"Ta có niệm có tuệ
Và sức mạnh tinh tấn
Trong một đêm ta nhớ
Có đến năm trăm kiếp"
Ta tu bốn niệm xứ
Giác chi, tám thánh đạo
Trong một đêm ta nhớ
Có đến năm trăm kiếp".

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumut-tara, vị trưởng lão này tái sanh trong một gia đình Bà la môn tại thành Hamsavati.

Một hôm, lúc đến tịnh xá nghe pháp, chàng thấy Đức Thế Tôn biểu dương một vị tỳ khưu đệ nhất về hạnh túc mạng thông, hoan hỉ với hình ảnh đó nên chàng Bàlamôn này tích cực làm các thiện sự và mỗi khi tạo được công đức gì chàng đã tự mình chú nguyện cho sớm đạt được thành quả đó.

Sau khi mạng chung, chàng được tái sanh nhàn cảnh, luân chuyển trong nhàn cảnh cho đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Sumedha, chàng lại được tái sanh trong một gia đình Bàlamôn.

Khi trưởng thành chàng đà thành tựu các chú thuật và các học nghệ của Bàlamôn, mặc dù có sự thông minh và tài năng xuất chúng như vậy nhưng do quá khứ đã tích trữ nhiều thiện duyên giải thoát, nên tâm tư chàng chỉ hướng đến sự xuất ly.

Từ bỏ đời sống tại gia nhiều phiền muộn chàng xuất gia làm đạo sĩ, dựng lên một am thất gần một khu rừng gần núi Hy mã.

Hằng ngày, vị đạo sĩ rời khỏi am thất đi tìm các loại trái cây rừng về làm thực phẩm.

Một hôm trong lúc đi hái trái, đạo sĩ nghe tin Đức Phật đã ra đời. Hoan hỉ với tin ấy, vị đạo sĩ bèn rời khỏi am thất, đi thẳng đến kinh thành Bhaddavati để yết kiến Đức Phật. Rồi chỉ một đêm đàm đạo thọ giáo nơi Đức Thế Tôn, vị đạo sĩ phát khởi lòng tin mãnh liệt và đã tán thán Đức Thế Tôn với sáu bài kệ, mở đầu như vậy:

"Tuvam Sattha Ca Ketu Ca..."
Ngài là bậc Đạo Sư
là chúa tể của các tinh tú...

Và sau đó, Đức Thế Tôn cũng đã ca tụng đạo sĩ.

Do phước báo ấy, sau khi mạng chung, vị đạo sĩ được tái sanh lên thiên giới, luân chuyển giữa hai cõi trời, người cho đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, vị đạo sĩ được tái sanh trong một gia đình Bàlamôn tại thành Savatthi và được đặt tên là Sobhita.

Sau khi lớn lên, do thiện căn dẫn dắt, Sobhita đã đến nghe pháp nơi Đức Thế Tôn chàng phát khởi niềm tin xuất gia và không bao lâu cũng chứng được lục thông.

Do sự tu tập và hạnh nguyện nên tôn giả Sobhita, trở thành người thuần thục đặc biệt trong thuần túc thông.

Như trong Apadana, tôn giả đã nói lên bài kệ rằng:

"Ta dựng lên am thất
Phía nam núi Hy mã
Trong một khu rừng già
Với mục đích tìm cầu
Điều lợi ích cao thượng
Tự bằng lòng củ trái
Không tổn hại một ai
Ta độc cư nhàn tịnh
Bấy giờ Đức Chánh Giác
Hồng danh Sumedha
Xuất hiện trên thế gian
Ngài tiếp độ quần sanh
Nói lên bốn sự thật
Ta không được hay tin
Và chẳng ai cho biết
Khi trải qua tám năm
Ta mới được nghe tin
Bậc dẫn dắt thế gian
Ta đem lửa, củi đi
Rồi quét dọn am thất
Quảy gánh rời khỏi rừng
Mỗi đêm ta dừng nghĩ
Tại làng và thị trấn
Lần hồi cũng đến thành
Tên Candavati
Bấy giờ Đức Thế Tôn
Bậc dẫn dắt thế gian
Hồng danh Sumedha
Đang tiếp độ quần sanh
Ngài thuyết pháp bất tử
Ta vượt qua đại chúng
Đến lễ bậc Chiến Thắng
Bậc Thiện Thệ cao quý
Khoát da thú chéo vai
Ta tán thán Ngài rằng:
"Ngài là Bậc Đạo Sư
Là chúa tể tinh tú
Là ngọn cờ chiến thắng
Là trụ cột cúng lễ
Của tất cả quần sanh
Ngài là chỗ duy trì
Ngài là chỗ nương tựa
Là hải đảo muôn loài
Cao thượng hơn tất cả
Ngài là bậc Thiện Xảo
Bậc thấu đạt trong kiến
Ngài tiếp độ đại chúng
Cho đến bờ giải thoát
Kính bạch bậc Ẩn Sĩ
Không có ai trong đời
Có thể sánh bằng Ngài
Về việc giúp chúng sanh
Đạt đến bờ giác ngộ
Đại dương tuy sâu thẳm
Cũng có thể đo lường
Kính bạch Bậc Tòan Giác
Còn trí tuệ của Ngài
Không ai đo lường được
Quả đất tuy rộng lớn
Cũng có vật đo lường
Kính bạch Bậc Có mắt
Nhưng trí tuệ của Ngài
Không gì đo lường được
Hư không tuy bao la
Cũng có vật đo lường
Kính bạch Bậc Toàn Giác
Nhưng giới đức của Ngài
Không gì đo lường được
Nước biển và hư không
Cùng lãnh phận ba cõi
Cũng có thể ước lượng
Nhưng đối với Thế Tôn
Không ai ước lượng được"
Sau khi ta tán thán
bậc Toàn Giác vô thượng
Với sáu bài kệ ấy
Xong ta chấp hai tay
đứng yên tại nơi đó
bấy giờ, Đức Thế Tôn
Bậc có đại trí tuệ
Hồng danh Sumedha
Ngự tọa giữa Tăng chúng
Phán lên bài kệ rằng
Người nào tâm tịnh tín
Tán thán tuệ Như Lai
Ta tuyên bố người ấy
Các ngươi hãy lắng nghe
Người ấy sẽ hân hoan
Trong thiên giới 77 kiếp
Một ngàn lần được sanh
Làm vị Chuyển luân vương
rất nhiều lần được sanh
Làm vua đại quốc độ
Dù làm trời hay người
Cũng là người hữu phúc
Với tâm tư hiền thiện
Có trí tuệ thông suốt
Trong ba năm ngàn kiếp
đến khi Đức Chánh Giác
Hồng danh Gotama
Xuất hiện trong thế gian
Người ấy không vương vấn
Từ bỏ đi xuất gia
Và chứng quả Vô sanh
Khi chỉ mới bảy tuổi
Trong những kiêp luân chuyển
Ta là người luôn được
Đầy đủ về tài sản
Đây chính là kết quả
Của việc tán thán Phật
Ta dập tắt ái dục
Nhổ lên gốc sanh hữu
Chấm dứt các lậu hoặc
Không còn kiếp sống mớI
Trong kiếp thứ ba muôn
Ta tán thán Phật nào
Do sự tán thán ấy
Ta không biết khổ cảnh
Đây chính là kết quả
Của việc tán thán Phật
Ta thiêu đốt phiền não
Lời Phật dạy làm xong.

Sau khi chứng quả Alahán, trưởng lão dùng túc mạng thông nhớ lại tiền kiếp của mình tuần tự thấy cho đến Acittaka-Patisandhi - trong cõi vô tưởng, kế tiếp suốt năm trăm kiếp không thấy tâm diễn tiến mà chỉ thấy kiếp cuối cùng, trưởng lão mới suy xét rằng:" Vì cớ gì lại như vậy?" và trưởng lão hiểu " Vì là cõi vô tưởng".

Như Đức thế Tôn có dạy:

"Nầy chư tỳ khưu, chư thiên có tuổi thọ dài là chúng sanh vô tưởng , Sobhita sau khi mạng chung từ cõi vô tưởng tái sanh đến cõi này, Sobhita cũng nhớ được".

Đức Thế Tôn thấy trưởng lão là người thiện xảo về túc mạng thông, bèn xác chứng trưởng lão là vị đệ nhất về túc mạng thông.

Một lần nọ, khi dùng túc mạng thông quán xét lại tiền kiếp của mình và pháp hành làm duyên cho túc mạng thông ấy, khiến trưởng lão phát sanh niềm hoan hỉ, đã xướng lên hai bài kệ rằng:

" Ta có niệm có tuệ
Và sức mạnh tinh tấn
Trong một đêm ta nhớ
Có đến năm trăm kiếp"
" Ta tu bốn niệm xứ
Giác chi, tám thánh đạo
Trong một đêm ta nhớ
Có đến năm trăm kiếp"
"Ta tu bốn niệm xứ
Giác chi, tám thánh đạo
Trong một đêm ta nhớ
Có đến năm trăm kiếp".

*

35- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO

Được biết trưởng lão Kumarakassapa đã nói lên bài kệ rằng:

"Vi diệu thay Đức Phật
Vi diệu thay Giáo pháp
Và thành tựu Đạo Sư
Ở đây vị đệ tử
Đã tác chứng pháp ấy"
"Trãi qua vô lượng kiếp
Do chấp thủ năm uẩn
Đây là thân cuối cùng
Thân nầy đến chỗ cuối
Sanh hữu mới không còn".

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumut-tara, vị trưởng lão nầy tái sanh trong một gia đình Bàlamôn .

Một hôm, lúc đến tịnh xá nghe pháp, nhìn thấy Đức Thế Tôn biểu dương một vị tỳ khưu thù thắng hơn chư Tăng về hạnh thuyết pháp kỳ diệu, thỏa thích với hình ảnh đó, nên chàng Bàlamôn nầy đã tích cực hành các thiện sự rồi tự mình chú nguyện.

Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, cháng Bàlamôn ấy cũng tái sanh trong một gia đình Bàlamôn.

Do căn lành đã trưởng dưỡng nhiều, nên chàng được xuất gia trong giáo pháp. Xã hội bấy giờ nhiều loạn lạc, dân chúng khổ sở lầm than do thiên tai, bệnh tật và do nếp sống đạo đức suy giảm. Động tâm với những thảm cảnh, vị tỳ khưu nầy cùng với sáu người bạn đồng phạm hạnh tìm đến một ngọn núi, quyết chí hành pháp và đã mạng chung từ đấy, rồi được sanh lên thiên giới.

Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, vị tỳ khưu ấy, tái sanh vào bào thai một nàng tiểu thư con của vị trưởng giả tại thành Rajagaha. Nàng tiểu thư nấy có ý muốn xuất gia từ khi còn là một thiếu nữ, nàng đã xin phép cha mẹ nhiều lần, nhưng ông Bàlamôn trưởng giả không chấp thuận.

Sau khi gã về nhà chồng, nàng đã hầu hạ chồng một cách chu đáo, mặc dù sống trong cảnh gia đình êm ấm, nhưng nàng vẫn không quên lý tưởng xuất gia. Cho đến một hôm, người chồng thấy nàng vẫn còn nuôi dưỡng ý định đi tu, thương cảm nàng, ông đã chấp thuận.

Không biết mình đang có mang, nàng đã từ giả chồng đi đến trú xứ của các vị tỳ khưu ni, xin xuất gia.

Sau đó các vị tỳ khưu ni phát hiện nàng đang có mang, bèn đi đến trình với tôn giả Devadatta. Tôn giả cho rằng nàng là tỳ khưu ni bất chánh, định trục xuất nàng. Các vị tỳ khưu ni bèn dẫn nàng đến Bậc Đạo Sư, Bậc Đạo Sư giao sự việc nầy cho luật sư Upali giải quyết.

Trưởng lão cho mời một số cư sĩ tại thành Savatthi và tín nữ Visakha đến phân xử. Trong hội đồng ấy có cả đức vua tham dự, sau khi tra xét ngày tháng, tất cả kết luận rằng vị tỳ khưu ni nầy mang thai trước khi xuất gia và phạm hạnh của nàng thanh tịnh.

Bậc Đạo Sư ban lời tán thành rằng: "Sự việc trưởng lão Upali giải quyết quả thật hợp lý".

Ngày tháng tròn đủ, nàng tỳ khưu ni ấy sanh ra đứa bé trai có sắc thái như vàng, đức vua Pasenadi-kosala nhận nuôi dưỡng đứa bé ấy và đặt tên là Kassapa.

Thời gian sau đức vua cho người trang phục xinh đẹp cho đứa bé và dẫn đến chỗ Bậc Đạo Sư cho xuất gia. Do xuất gia trong lúc còn nhỏ, nên đôi khi Đức Thế Tôn phán với các vị tỳ khưu rằng:

"Các ngươi hãy gọi Kassapa đến cho trái cây nầy hoặc hãy cho thức ăn nầy đến Kassapa".

Các vị tỳ khưu bạch hỏi rằng:

"Bạch Thế Tôn, Kassapa nào?"

Ngài mới phán rằng: "Kumarakassapa" (Kassapa nhỏ).

Từ đó mới có tên là Kumarakassapa cho dù sau nầy tuổi đã tăng lên.

Sau khi xuất gia, tôn giả Kumarakassapa tu tập thiền quán và học những Phật ngôn. Lúc bấy giờ, có một vị đại Phạm thiên, trước kia trong thời kỳ Đức Phật, Kassapa là một trong bảy vị tỳ khưu thực hành sa môn pháp trên đỉnh núi, vị nầy đã chứng quả Bất Lai và được sanh lên cõi Tịnh Cư Thiên, còn tiền thân tôn giả Kumarakassapa không chứng được gì và được sanh lên thiên giới do phạm hạnh trong sạch; vị đại phạm thiên suy nghĩa rằng:

"Ta sẽ giúp cho Kumarakassapa phương pháp chứng đắc đạo quả".

Rồi vị đại phạm thiên sáng tác 15 câu hỏi về đề tài thiền quán và ngự đến rừng Andha, nói với tôn giả Kumarakassapa rằng:

"Nầy hiền giả Kumarakassapa, hiền giả hãy đem các câu hỏi nầy đến hỏi Bậc Đạo Sư".

Tôn giả bèn đem các câu hỏi ấy đến hỏi Đức Thế Tôn, Thế Tôn đã giải đáp cho tôn giả.

Tôn giả học thuộc các câu ấy và dựa trên nền tảng đó, tôn giả đã phát triển thiền quán chứng đạt Alahán.

Như trong Apadana, tôn giả đã nói lên bài kệ rằng:

"Trong kiếp thứ một muôn
Kể từ hiền kiếp nầy
Đức Thế Tôn hồng danh
Padumuttara
Bậc cứu giúp cho đời
Ngự sanh trong thế gian
Bấy giờ, ta tái sanh
Làm vị Bàlamôn
Giàu có và danh tiếng
Một hôm, ta nhìn thấy
Thế Tôn đang tán thán
Một vị Thánh đệ tử
Đệ nhất hạnh thuyết pháp
Kỳ diệu đến hội chúng
Thỏa thích hình ảnh đó
Ta trang hoàng đại sảnh
Rực rỡ với báu vật
Trải loại vãi tốt đẹp
Rồi cung thỉnh Thế Tôn
Cùng với đại chúng Tăng
Thọ thực tại đại sảnh
Ta tự tay phục vụ
Thế Tôn cùng chư Tăng
Các món ăn thượng vị
Trãi suốt đến bảy ngày
Cùng nhiều hoa tươi đẹp
Sau khi cúng dường xong
Quỳ dưới chân Thế Tôn
Thành tâm ta chú nguyện
Do phước báu thanh cao
Con trong sạch cúng dường
Thực phẩm cùng hoa đẹp
Đến Thế Tôn, chư Tăng
Xin cho con thành tựu
Đệ nhất hạnh thuyết pháp
Kỳ diệu trong giáo pháp
Của Đức Phật vi lai
Bấy giờ Bậc Ẩn Sĩ
Với bi mẫn phán rằng:
"Hãy nhìn Bàlamôn
Có miệng như hoa sen
Thân tâm đầy phỉ lạc
Mắt to đầy ngưởng mộ
Trong giáo pháp của ta
Người ước nguyện đệ nhất
Hạnh thuyết pháp kỳ diệu
Trong kiếp thứ một muôn
Kể từ hiền kiếp nầy
Thế Tôn Gotama
Sanh lên trong thế gian
Người nầy sẽ thừa tự
Giáo pháp của Thế Tôn
Được gọi với tên là
Kumarakassapa
Do mãnh lực hoa đẹp
Vải đặc biệt, báu vật
Nên người được thành tựu
Đệ nhất trong chư Tăng
Hạnh thuyết pháp kỳ diệu
Do thiện sự khéo làm
Sau khi ta mạng chung
Được sanh cõi Đạo LợI
Như vở kịch xoay vần
Diễn ra trên sân khấu
Ta sanh làm con trai
Của nai tên Sakha
Lúc ta trong bụng mẹ
Mẹ của ta đã bị
Nai Sakha ruồng bỏ
Mẹ ta phải nương tựa
Nai chú Nirodha
Nhờ vậy được thoát chết
Từ bỏ nai Sakha
Mẹ giáo huấn ta rằng
Con chỉ nên thân cận
Nai chúa nirodha
Dù cho con có chết
Chỗ nai Nirodha
Như vậy còn quý hơn
Sống với nai Sakha
Sẽ được lợi ích gì?
Ta và mẹ của ta
Cùng nhiều con nai khác
Nương vào lời giáo huấn
Nai chúa Nirodha
Đã từ bỏ thân thú
Sanh lên cõi Đâu Xuất
Khi thời kỳ giáo pháp
Thế Tôn Kassapa
Đang đi dến hoại diệt
Ta cùng sáu vị nữa
Tìm đến một ngọn núi
Ta tinh tấn thực hành
Theo lời dạy Đạo sư
Cho đến khi mạng chung
Được sanh lên thiên giới
Nay ta được tái sanh
Trong gia đình trưởng giả
Tại Rajagaha
Mẹ ta đã có mang
Trước khi đi xuất gia
Biết mẹ ta có thai
Chư ni ấy dẫn mẹ
Đến Devadatta
Devadatta tuyên bố
Các người hãy trục xuất
Kẻ đê tiện này ngay
Sau đó Đức Thế Tôn
Đã tiếp độ mẹ ta
Mẹ ta được an lạc
Trong chỗ tỳ khưu ni
Đức vua Kosala
Biết được sự việc ấy
Bèn nhận nuôi dưỡng ta
Do tu lúc còn nhỏ
Và tên Kassapa
Cũng do nương trưởng lão
Mahakassapa
Nên ta được danh xưng
Kumarakassapa
Rồi khi nghe pháp thoại
Do Thế Tôn thuyết giảng
Đề cập ý nghĩa rằng
Thân này như tổ mối
Tâm của ta thoát khỏi
Các lậu hoăc phiền não
Đạt vô thủ niết bàn
Do duyên cảm hoá được
Đức vua Payasi
Thế Tôn xác chứng ta
Đệ nhất hạnh thuyết pháp
Nay là kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não
Lời Phật dạy làm xong

Sau khi chứng quả Alahán, một lần nọ với sự thuyết giáo của mình tôn giả Kumarakassapa đã cảm hóa được đức vua Payasi, nhân dịp này Đức Thế Tôn bèn xác chứng tôn giả đệ nhất về hạnh thuyết pháp kỳ diệu.

Một hôm, khi quán xét lại quá trình tu chứng của mình và dưới hình thức tán thán ân đức tam bảo, tôn giả đã nói lên hai bài kệ rằng:

" Vi diệu thay đức Phật
Vi diệu thay giáo pháp
Và thành tựu Đạo Sư
Ở đây vị đệ tử
Đã tác chứng pháp ấy"
"Trải qua vô lượng kiếp
Do chấp thủ năm uẩn
Đây là thân cuối cùng
Thân này đến chỗ cuối
Sanh hữu mới không còn"

*

36 - KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO MOGHARAJA

Được biết một lần nọ, nhân dịp trưởng lão đến yết kiến bậc Đạo Sư đã hỏi trưởng lão với bài kệ như sau:

"Này Mogharaja
Màu da người tái nhợt
Nhưng tâm ngươi trong sáng
Luôn an trú thiền định
Ngươi sẽ phải làm sao
Trong những đêm lạnh giá"

Trưởng lão Mogharaja đã trả lời bậc Đạo Sư với bài kệ rằng:

"Con được nghe nói rằng
Ở xứ Magadha
Thịnh vượng đầy lúa gạo
Những cư dân tại đấy
Có cuộc sống an lạc
Với thân phủ kín rơm"

Trong thời kỳ giáo pháp của đức Thế Tôn Padu-mattara, vị trưởng lão này tái sanh trong một gia đình Bàlamôn.

Một hôm lúc đến tịnh xá nghe pháp, nhìn thấy đức Thế Tôn dương một vị tỳ khưu thù thắng hơn chư tăng về hạnh mặc y thô xấu, thoả thích với đặc hạnh ấy, nên chàng Bàlamôn đã tích cực làm các công đức, rồi tự chú nguyện cho mình.

Đến thời kỳ giáo pháp của đức Thế Tôn Atthadassi, chàng Bàlamôn ấy lại được tái sanh trong một gia đình Bàlamôn.

Khi lớn lên, chàng đã thành tựu các chú thuật và các học nghề của Bàlamôn, rồi chàng đã truyền dạy các kiến thức ấy cho các thanh niên Bàlamôn.

Một hôm, chàng nhìn thấy đức Thế Tôn cùng đại chúng tỳ khưu đang ngự đi trên đường, chàng khởi tâm tịnh tín, quỳ xuống đãnh lễ ngũ thể đầu địa, rồi chấp hai tay trên đầu, tán thán bậc Đạo Sư với sáu bài kệ, mở đầu là: "Yavata rupino satta".

Sau đó, chàng lấy mật ong cúng dường Ngài, đức Thế Tôn thọ nhận mật ong ấy, rồi Ngài đã nói lên lời tuỳ hỷ chúc phúc.

Do nghiệp lành ấy, sau khi mạng chung chàng được tái sanh lên thiên giới, luân chuyển giữa cõi người và cõi trời một thời gian dài, cho đến thời kỳ giáo pháp của đức Thế Tôn Kassapa, chàng được tái sanh làm quan đại thần của đức vua Katthavahana.

Một hôm, đức vua truyền lịnh cho ông đi cung thỉnh đức Thế Tôn, vị quan đại thần cùng với 1.000 tuỳ tùng đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi được nghe pháp nơi Thế Tôn, ông đã khởi niềm tin và xin xuất gia. Xuất gia xong ông đã nhiệt tâm thực hành sa môn pháp suốt 20.000 năm.

Mạng chung từ kiếp ấy ông được sanh lên thiên giới, luân chuyển trong nhàn cảnh cho đến thời kỳ giáo pháp của đức Thế Tôn chúng ta, ông được tái sanh trong một gia đình Bàlamôn và tên là Mogharaja.

Khi lớn lên Mogharaja được cha mẹ gửi đi học nơi Bàlamôn Bavari, kính cảm với đời sống thế tục, Mogha-raja xuất gia làm đạo sĩ và được 1000 đạo sĩ tùy tùng.

Lúc bấy giờ, những tiếng đồn tốt đẹp về đức Thế Tôn được truyền đi khắp nơi, để xác minh về những tiếng đồn ấy, Bàlamôn Bavara đã gửi những học trò xuất sắc của mình đến chỗ đức Thế Tôn để biết sự thật.

Đạo sĩ Mogharaja là một trong số học trò được Bàlamôn Bavari gửi đi. Sau khi đến chỗ Thế Tôn các vị học trò ấy tìm hiểu về đại nhân tướng nơi Thế Tôn và khi được thấy đầy đủ rồi, các vị ấy bèn đặt lên những câu hỏi, đức Thế Tôn vừa trả lời dứt các câu hỏi ấy, thì đạo sĩ Mogharajacũng chứng đạt Alahán.

Như trong Apadana, trưởng lão đã nói lên bài kệ rằng:

"Đức Thế Tôn hồng danh
Atthadassi
Bậc chiến thắng tất cả
Cùng đại chúng tỳ khưu
Đang ngự đi trên đường
Rồi ta rời khỏi nhà
Cùng với các học trò
Trên đường đi ta gặp
Thế Tôn Atthadassi
Bậc dẫn dắt thế gian
Cùng đại chúng tỳ khưu
Ta chấp tay trên đầu
Đảnh lễ đức Chánh Giác
Với lòng đầy tịnh tín
Ta tán thán Ngài rằng
Các chúng sanh hữu sắc
Hữu tưởng hay vô tưởng
Các loài hữu tình ấy
Đều nằm trong trí Ngài
Ví như loài thuỷ tộc
Các loài ấy đều dính
Trong lưới có mắt nhỏ
Được chài ném trong nước
Lại nữa, chúng sanh nào
Hữu sắc hay vô sắc
Các loài chúng sanh ấy
Đều nằm trong trí Ngài
Ngài bứng lên thế gian
Hổn độn và đen tối
những ai nghe pháp Ngài
Nghi hoặc được vượt qua
Thế gian bị bao phủ
Bởi màn đêm vô minh
Rồi Ngài đã xua tan
Màn đêm vô minh ấy
chiếu ánh sáng rực rỡ
Với trí tuệ của Ngài
Ngài là bậc có mắt
Đã xua tan bóng tối
Nhiều người nghe pháp Ngài
Được tịch tịnh niết bàn
Rồi ta lấy mật ong
Đổ đầy một bát nhỏ
Mang đến với hai tay
Cúng dường đức Thế Tôn
Bậc Đại hùng thọ nhận
Với cánh tay mỹ miều
Sau khi dùng mật ong
Ngài bay lên hư không
Khiến tâm ta thỏa thích
Rồi ngự giữa hư không
Ngài phán bài kệ rằng
Người nào tán thán trí
Và tán thán Thế Tôn
Bằng tấm lòng tịnh tín
Người ấy sẽ an lạc
Trong hai cõi nhân thiên
46 lần được làm
Vị Thiên vương Đế Thích
500 lần được sanh
Làm vị Chuyển Luân Vương
Rất nhiều lần được làm
Vua của đại quốc độ
Khi đến kiếp cuối cùng
Thông phệ đà chú thuật
Rồi tu trong giáo pháp
Thế Tôn Gotama
Sẽ suy xét nghĩa lý
Thâm sâu và tinh tế
Bằng trí tuệ của mình
Sẽ là đại Thinh văn
Tên Mogharaja
Sẽ chứng đạt tam minh
Việc cần làm, làm xong
Các lậu hoặc không còn
Ta từ bỏ phiền não
Chặt đứt mọi ái hữu
Lời Phật dạy làm xong

Trưởng lão sống với hạnh mặc y phấn tảo, y phấn tảo của trưởng lão có đủ 3 chi thô xấu, là vải thô xấu, chỉ thô xấu và nước nhuộm thô xấu. Do nhân đó, đức Thế Tôn mới biểu dương trưởng lão là vị tỳ khưu đệ nhất về hạnh mặc y thô xấu.

Một thời gian sau, do nghiệp cũ làm duyên và do thiếu săn sóc thân thể, các mụn ghẻ nổi lên và bể ra và chảy nước vàng, rồi lan ra trên thân thể của trưởng lão, trưởng lão nghĩ rằng trú xứ của mỉnh bị ô nhiễm, bèn lấy rơm trãi lót trên một cánh đồng của dân Magadha, dầu lúc bấy giờ là mùa lạnh.

Một ngày nọ trưởng lão đến yết kiến đãnh lễ bậc Đạo Sư, Ngài đã hỏi trưởng lão với bài kệ rằng:

"Này Mogharaja
Màu da ngươi tái nhợt
Nhưng tâm ngươi trong sáng
Luôn an trú thiền định
Ngươi sẽ phải làm sao
Trong những đêm giá lạnh"

Khi được hỏi như thế, trưởng lão đã trả lời bậc Đạo Sư với bài kệ rằng:

"Con được nghe nói rằng
Ở xứ Magadha
Thịnh vượng đầy lúa gạo
Những cư dân tại đấy
Có cuộc sống an lạc
Con cũng được an lạc
Với thân phủ kín rơm".

*

37- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO PACCAYA

Đực biết trưởng lão Paccaya đã nói lên bài kệ rằng:

"Ta xuất gia năm ngày
Trở thành bậc hữu học
Nhưng ta chưa chúng đạt
Quả vị Alahán
Ta đi vào tịnh xá
Tâm phát nguyện như sau"
"Khi nào chưa nhổ lên
Mũi tên của tham ái
Ta sẽ không ăn uống
Không rời khỏi tịnh xá
Không ngã lưng nằm xuống
Không tựa một bên hông"
"Khi ta sống như vậy
Sẽ thấy sự tinh cần
Sự nổ lực tiến tới
Ba minh ta chứng đạt
Lời Phật dạy làm xong".

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Vipassi, vị trưởng lão nầy tái sanh trong một gia đình Bàlamôn giàu có.

Một hôm, lúc Đức Thế Tôn ngự đến bờ sông Vinta, nhìn thấy Ngài, chàng phát tâm trong sạch, chọn những trái sung lớn, thơm ngon, dâng đến Thế Tôn.

Do thiện nghiệp ấy, sau khi mạng chung, chàng được tái sanh lên thiên giới và chỉ luân chuyển trong nhàn cảnh, đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, chàng được tái sanh trong một gia đình phú hộ.

Sau khi Đức Thế Tôn Kassapa, chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác, Ngài vận chuyển bánh xe chánh pháp đi tiếp độ chúng sanh, chàng được nghe pháp nơi Thế Tôn, khởi niềm tin và xin xuất gia.

Sau khi xuất gia, vị tỳ khưu nầy đã nhiệt tâm thực hành sa môn pháp. Một hôm, trong lúc ngồi suy quán nhìn thấy những nổi thống khổ của vòng sanh tử, khiến cho bị động tâm mạnh, vị nầy đi vào tịnh xá phát nguyện rằng:

"Cho đến khi nào chưa chứng đạt Alahán, ta sẽ không rời khỏi nơi đây".

Rồi nổ lực tinh tấn hành pháp, nhưng không đủ mạnh làm cho các tuệ cao phát sanh, vì trí tuệ chưa đủ mạnh. Sau khi mạng chung, vị tỳ khưu nầy được sanh lên thiên giới, luân chuyển giữa cõi trời và cõi người, cho đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, vị tỳ khưu ấy được tái sanh trong hoàng tộc, tại thành Rohini, có tên là Paccaya.

Sau khi phụ vương băng hà, hoàng tử Paccaya đã lên kế vị ngai vàng, trị vì vương quốc.

Một hôm, đức vua Paccaya tổ chức một đại tế đàn dân chúng tụ hội tại nơi ấy rất đông.

Để phát sanh lòng tịnh tín đến quần chúng tham dự buổi lễ, bậc Đạo Sư ngự tọa trên bảo tọa sư tử,trong một đại điện trang hoàng nhiều châu báo do đức Thiên Vương Vessavanna hóa hiện cúng dường ,Ngài thuyết pháp đến đại chúng, trong khi mọi người chiêm ngưỡng Ngài. Sau thời pháp, đại đa số thính chúng thể nhập được lời Phật dạy.

Còn đức vua Paccaya, sau khi nghe thời pháp, do thiện duyên giải thoát chín muồi, Ngài từ bỏ ngai vàng và xin đức Phật xuất gia như trước kia Ngài đã phát nguyện dưới thời đức Phật Kassapa nay cũng được tái lập. Sau khi xuất gia tôn giả Paccaya nhiệt tâm tinh cần tu tập nhưng vẫn không chứng đạt mục đích cứu cánh, tôn giả bèn đi vào tịnh xá phát nguyện, do quyết tâm cùng với trí tuệ thuần thục nên tôn giả đã thành tựu quả vị Alahán ngay sau đó.

Như trong Apadana trưởng lão đã nói lên bài kệ rằng:

"Ta thấy đức Thế Tôn
Hồng danh Vipassi
Bậc thượng nhân thế gian
Tâm tư khéo định tĩnh
Đã đoạn trừ ái dục
Ta tịnh tín nơi Ngài
Bậc gột sạch phiền não
Bấy giờ ta trong sạch
Chọn lấy những quả sung
To ngon nhiều hương vị
Dâng đến bậc Chánh Gíac
Trong kiếp chín mươi mốt
Kể từ hiền kiếp này
Ta cúng dường quả nào
Do việc cúng dường ấy
Ta không biết khổ cảnh
Đây chính là kết quả
Của việc cúng dường Phật
Cũng trong hiền kiếp này
Do bị động tâm mạnh
Nên ta đã xuất gia
Trong giáo pháp của Phật
Hồng danh Kassapa
Rồi sau khi xuất gia
Tự ta phát nguyện rằng
Sẽ không rời tịnh xá
Khi chưa chúng đạt pháp
Tuy thời ấy không chứng
Nhưng giớ các phiền não
Đã được ta dập tắt
Thể nhập lộ bất tử
Thấu đạt pháp an tịnh
Nay là kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não
Lời Phật dạy làm xong"

Sau khi chứng quả Alahán và để xác chứng quả vị Alahánvà thuật lại quá trình tu tập của mình, trưởng lão đã nói lên 3 bài kệ rằng:

"Ta xuất gia năm ngày
Trở thành bậc Hữu học
Nhưng ta chưa chứng đạt
Quả vị Alahán
Ta đi vào tịnh xá
Tâm phát nguyện như sau"

"Khi nào chưa nhổ lên
Mũi tên của tham ái
Ta sẽ không ăn uống
Không rời khỏi tịnh xá
Không ngã lưng nằm xuống
Không tựa một bên hông"

"Khi ta sống như vậy
Sẽ thấy sự tinh cần
Sự nỗ lực tiến tới
Ba minh ta chứng đạt
Lời Phật dạy làm xong"

*

38 -KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO BAKULA

Được biết trưởng lão Bakula đã nói lên bài kệ rằng:

"Người nào không chịu làm
Công việc cần làm trước
Tính để sau mới làm
Người ấy sẽ lệch ra
Cội nguồn của an lạc
Và về sau sẽ chịu
Khổ đau trong hối tiếc"
Ta nói việc đáng làm
Không nói việc không đáng
Với những ai nói việc
Không phải mình đang làm
Bậc trí cũng nhận biết"
"Niết bàn bậc Chánh Giác
Đã khéo thuyết giảng rồi
Là pháp không có sầu
Là cứ địa hạnh phúc
Là nơi dập tắt khổ
Và tuyệt đối an lạc"

Trong thời quá khứ cách nay khoảng một A-tăng-kỳ một trăm ngàn kiếp trước khi đức Thế Tôn Anoma-dassi ra đời, trưởng lão Bakula này sanh trong một gia đình Bàlamôn.

Lớn lên, học xong ba tập phệ đà, nhưng chàng không thấy được sự vi diệu trong ba tập phệ đà ấy, chàng mới xuất gia làm đạo sĩ với suy nghĩa rằng: "Ta sẽ tìm cầu lợi ích cho vị lai".

Vị đạo sĩ sống tại một triền núi chứng được bát thiền ngũ thông. Một hôm, biết được đức Phật đã ra đời, đạo sĩ đi đến chỗ đức Phật. Sau khi nghe pháp nơi Ngài, đã khởi niềm tin và xin quy y tam bảo.

Lần nọ, khi đức Thế Tôn bị đau bụng, đạo sĩ từ rừng mang thuốc đến cúng dường, đức Thế Tôn dùng thuốc của đạo sĩ và đã hết bệnh, với phước báo cúng dường thuốc đến bậc Đạo Sư, đạo sĩ đã chú nguyện cho mình trong vòng luân hồi sanh tử, sẽ là người vô bệnh.

Sau khi mạng chung, vị đạo sĩ được sanh lên cõi Phạm thiên, luân chuyển hai cõi nhân thiên hết một A-tăng-kỳ kiếp. Đến thời kỳ giáo pháp của đức Thế Tôn Padumuttara vị đạo sĩ tái sanh trong một gia đình giàu có tại thành Hamsavati.

Một hôm, lúc đến tịnh xá nghe pháp chàng nhìn thấy Thế Tôn biểu dương một vị tỳ khưu thù tháng hơn chư Tăng về sự thiểu bệnh, do có nhân duyên quá khứ nên chàng cảm thấy thỏa thích với vị trí ấy, rồi đã cung thỉnh đức Thế Tôn cùng đại chúng tỳ khưu về nhà cúng dường đại thí. Sau khi cúng dường xong, chàng đã phủ phục dưới chân Thế Tôn chú nguyện cho mình trở thành đệ nhất Thinh văn thiểu bệnh trong giáo pháp của đức Phật vị lai.

Mạng chung từ kiếp ấy, chàng được sanh lên thiên giới luân chuyển trong nhàn cảnh một thời gian dài trước khi đức Thế Tôn Vipassi ra đời, chàng tái sanh trong một gia đình Bàlamôn tại thành Bandhumati.

Sau khi lớn lên, chán ngán đời sống thế tục, chàng xuất gia làm đạo sĩ, dựng lên một am thất tại chân núi.

Tu tập thiền tịnh không bao lâu, đạo sĩ chứng được bát thiền và ngũ thông.

Sau khi hay tin đức Phật đã ra đời đạo sĩ rời chỗ ở của mình, đi đến yết kiến Thế Tôn, được nghe pháp nơi Ngài, đạo sĩ khởi tịnh tín và xin trọn đời quy ngưỡng.

Lúc bấy giờ, có một vị tỳ khưu sống trong rừng do không hợp phong thổ rừng núi nên đã mắc bệnh, vị đạo sĩ đã làm thuốc dâng cho các vị tỳ khưu ấy. sau khi dùng thuốc của đạo sĩ, các vị ấy được khỏi bệnh.

Vị đạo sĩ sống tại dấy cho đến khi mạng chung, được sanh lên thiên giới.

Đến thời kỳ giáo pháp của đức Thế Tôn Kassapa, vị đạo sĩ sanh trong một gia đình Bàlamôn tại thành Baranasi.

Do là người đã tích trữ nhiều duyên lành với tam bảo, nên sau khi được nghe pháp nơi Thế Tôn, chàng khởi tâm tín thành xin quy ngưỡng và trở thành một cận sự nam hộ độ nhiệt tình cho tam bảo.

Một lần nọ, chàng nhìn thấy trú xứ của chư Tăng bị hư hỏng nhiều, chàng đứng ra xây dựng lại mới cho chư Tăng và khi chư Tăng có bệnh chàng đã làm thuốc cúng dường.

Chàng đã hộ độ và phục vụ tam bảo cho đến khi mạng chung, được sanh lên thiên giới, luân chuyển giữa cõi trời, người suốt một kiếp Phật.

Trước khi đức Thế Tôn của chúng ta ra đời, chàng tái sanh trong một gia đình trưởng giả, tại thành Kosambi.

Một hôm, cậu bé trưởng giả tử này được người vú nuôi bế đến dòng sông Mahayamunà để tắm (theo quan niệm của Bàlamôn, tắm như vậy sẽ được vô bệnh), nhưng thình kình cậu bé đã bị một con kình ngư nuốt từ tay của người vú nuôi. Sau đó con cá ấy đã rơi vào tay của người thợ câu.

Lúc bấy giờ, tại thành Baranasi có một gia đình trưởng giả, thường ngày công việc đi chợ mua thức ăn thì có nhà bếp làm. Hôm ấy, tự nhiên trong lòng bà trưởng giả nôn nóng muốn tự mình đi chợ, sau khi đi sớm đến chợ nhìn thấy con cá to, bà lại muốn mua. Mua xong đem về nhà mổ bụng cá ra thì thấy đứa bé trong bụng cá còn sống, do phước duyên kiếp chót của vị Alahán, bà trưởng giả thấy đứa bé trong lòng bà đã dâng lên một tình cảm thiên liêng của tình mẫu tử và bà đã nhận đứa bé làm con.

Sau khi mất dứa con trai yêu quý, ông bà trưởng giả lomsaba rất đau khổ, nhưng họ luôn có một lòng tin rằng con mình vẫn chưa chết, và cho người đi tìm tung tích của đứa bé.

Một thời gian sau, ông bà trưởng giả Kosambi biết được con mình vẫn còn sống, hiện đang làm con của một gia đình trưởng giả tại thành Baranasi.

Ông bà trưởng giả Kosambi bèn đi đến baranasi đòi lại đứa con, ông bà trưởng giả Baranasikhông chịu giao đứa bé, thế là sự việc được đem đến đức vua phân xử, đức vua phán rằng:

"Cả hai gia đình đều có công ơn rất lớn đối với đứa bé và rất thương yêu nó, vậy nó sẽ là con của hai gia đình và sẽ là người thừa tự của hai gia đình". Do nhân đó, đứa bé mới có tên là Bakula (người của hai gia đình).

Bakula lớn lên được thừa hưởng gia sản 800 triệu, rồi một hôm, được nghe pháp nơi đức Thế Tôn, Bakula đã khởi niềm tin, xin xuất gia.

Sau khi xuất gia , sống với phàm phu tánh chỉ có bảy ngày, rạng ngày thứ tám Bakula chứng quả Alahán với tuệ phân tích.

Như trong Apadana, trưởng lão đã nói lên bài kệ rằng:

"Không xa rừng Hy mã
Có núi Sobhita
Ta cùng các học trò
Xây dựng các am thất
Và các ngôi nhà rộng
Tại trên ngọn núi ấy
Có nhiều cây ăn trái
Nhiều loại cây cho hoa
Và nhiều cây làm cảnh
Trú xứ ta như vậy
Ta cùng các học trò
Cư ngụ tại nơi ấy
Một hôm, đức Thế Tôn
Anomadassi
Bậc dẫn dắt thế gian
Với mục đích viễn ly
Ngự đến am thất ta
Bổng nhiên Ngài phát bịnh
Do gió độc xâm nhập
Bấy giờ ta nhìn thấy
Sự biến chuyển nơi Ngài
Biết chắc Ngài lâm bịnh
Ta vội vào am thất
Với ý định làm thuốc
Ta bèn gọi học trò
Lên núi hái dược thảo
Sau khi chúng mang về
Ta hòa thuốc với nước
Dâng đến Đức Thế Tôn
Bậc tối thượng muôn loài
Sau khi bậc Đại Hùng
Dùng dược phẩm ta chế
Bệnh của Ngài tịnh chỉ
Kế đó, Đức Chánh Giác
Anomadassi
Ngự toạ trên chỗ ngồi
Phán lên bài kệ rằng
Người nào cúng dường thuốc
Khiến Như Lai hết bệnh
Ta tuyên bố người ấy
Các ngươi hãy lắng nghe
Người ấy sẽ hân hoan
Trong tầng trời dục giới
Suốt một trăm ngàn kiếp
Được thọ hưởng dầy đủ
Những thiên lạc thù diệu
Trong các tầng trời ấy
Khi sanh xuống cõi người
Do phước báu làm duyên
Một ngàn kiếp được sanh
Làm vị chuyển luân vương
Trong kiếp thứ năm lăm
Được sanh làm hoàng đế
Danh xưng Anoma
Là vị chuyển luân vương
Có uy lực to lớn
Đầy đủ với bảy báu
Có quân đội hùng mạnh
Chinh phục cả Diêm phù
Dù chư thiên Đạo Lợi
Cũng có sự nể trọng
Trong những kiếp tái sanh
Sẽ là người thiểu bệnh
Rồi sau đại kiếp ấy
Sẽ trở thành thái tử
Do chánh pháp hóa sanh
Sẽ thừa tự giáo pháp
Của Đức Chánh Đẳng Giác
Hồng danh Gotama
Sẽ dập tắt phiền não
Chấm dứt các lậu hoặc
Vượt qua khỏi ái bộc
Là vị đại Thinh văn
Danh xưng Bakula
Khi biết rõ duyên hạnh
Thế Tôn Gotama
Thượng nhân dòng Thích Ca
Ngự tọa giữa Tăng chúng
Tán thán đức hạnh ta
Thiện sự nào ta làm
Nơi bậc Chánh Đẳng Giác
Chính do thịên sự ấy
Ta không biết khổ cảnh
Nay là kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não
Lời Phật dạy làm xong".

Một hôm trong buổi họp chư Tăng, Đức Thế Tôn ngồi giữa Tăng chúng, đã tán thán trưởn glão Bakula đệ nhất về thiểu bệnh.

Trước khi niết bàn, để xác chứng quả Alahán và ban lời giáo giới đến chư tỳ khưu, trưởng lão đã nói lên ba bài kệ rằng:

"Người nào không chịu làm
Công việc cần làm trước
Tính để sau mới làm
Người ấy sẽ lệch ra
Cội nguồn của an lạc
Và về sau sẽ chịu
Khổ đau trong hối tiếc"
"Ta nói việc nên làm
Không nói việc không đáng
Với những ai nói việc
Không phải mình đang làm
Bậc trí cũng nhận biết"
"Niết bàn bậc Chánh Giác
Đã khéo thuyết giảng rồi
Là pháp không có sầu
Là cứ địa hạnh phúc
Là nơi dập tắt khổ
Và tuyệt đối an lạc".

*

39- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO VARANA

Được biết trưởng lão Varana đã nói lên bài kệ rằng:

"Những ai sống trong đời
Gây tổn hại người khác
Người ấy tự phá hoại
Lợi lạc cả hai đời
Đời này và đời sau"
"Ai với tâm từ bi
Thương tưởng mọi hữu tình
Người sống hạnh như thế
Sẽ hưởng được an lạc"
"Hãy học tập giáo pháp
Thế Tôn khéo thuyết giảng
Hãy thân cận sa môn
Hãy độc cư viễn ly
Và khiến tâm an tịnh".

Ngược dòng thời gian, cách nay khoảng 92 kiếp, trước khi Đức Thế Tôn Tissa ra đời, trưởn glão Varana tái sanh trong một gia đình Bàlamôn.

Sau khi lớn lên vị Bàlamôn nầy thành tựu các chú thuật và học nghệ của Bàlamôn, khước từ mọi hấp dẫn của thế tục, chàng xuất gia làm đạo sĩ và dạy chú thuật cho 54 ngàn học trò.

Lúc bấy giờ quả địa cầu chấn động rung chuyển do Bồ Tát Tissa từ cung trời Đâu Xuất giáng sanh vào lòng Phật mẫu trong kiếp cuối. Thấy sự kiện dị thường như thế, đại chúng lo sợ hoảng hốt, cùng nhau đi đến đạo sĩ để tìm hiểu cớ sự.

Là người thông hiểu về tướng số, đạo sĩ biết được đây là dấu hiệu ban đầu cho biết sự ra đời của đức Chánh Đẳng Giác, đạo sĩ nói với đại chúng rằng: "Sự chấn động của địa cầu nầy là một điềm lành lớn lao cho thế gian, vì hôm nay đức đại Bồ Tát từ cung trời giáng sanh vào mẫu thai. Vì vậy các ngươi chớ có lo sợ, hãy vui mừng chờ ngày Đức Phật ra đời".

Rồi với kiến thức hiểu biết hình ảnh Đức Phật xuyên qua giáo điển Bàlamôn, vị đạo sĩ lấy hình ảnh đó làm đề mục suy niệm.

Với công đức đó, sau khi mạng chung, vị đạo sĩ được sanh lên thiên giới, luân chuyển sanh tử giữa hai cõi trời và người đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, vị đạo sĩ được sanh trong một gia đình Bàlamôn tại xứ Kosola, cha mẹ đặt tên là Varana.

Một hôm, Varana gặp vị trưởng lão sống hạnh độc cư trong rừng, chàng đi đến và được nghe pháp nơi trưởng lão, sau khi nghe xong thời pháp, chàng phát khởi niềm tin mãnh liệt, xin xuất gia tu tập theo sự hướng dẫn của vị trưởng lão ấy.

Ngày nọ, tôn giả Varana xin phép trưởng lão để đi yết kiến bậc Đạo Sư, tôn giả nhìn thấy con rắn hổ mang và con chồn cắn lộn nhau nằm chết giữa đường, bị động tâm với thảm cảnh ấy, tôn giả nghĩ "Hai con vật này vì sân hận nhau mà phải bỏ mạng".

Rồi sau khi đến chỗ Đức Thế Tôn, đãnh lễ vấn an Ngài xong, tôn già Varana đã thuật lại sự kiện mình thấy trên đường cho Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thấy được sự tiến bộ trong tâm tư của tôn giả, và nhân cơ hội ấy, Ngài đã ban lời giáo giới đến tôn giả với ba bài kệ như vầy:

"Những ai sống trong đời
Gây tổn hại kẻ khác
Người ấy tự phá hoại
Lợi lạc cả hai đời
Đời này và đời sau"
"Ai với tâm từ bi
Thương tưởng mọi hữu tình
Người sống hạnh như thế
Sẽ hưởng được an lạc"
"Hãy học tập giáo pháp
Thế Tôn khéo thuyết giảng
Hãy thân cận sa môn
Hãy độc cư viễn ly
Và khiến tâm an tịnh".

Sau đó, tôn giả Varana đã lấy những bài kệ nầy làm những bài học tâm đắc cho mình.

Như trong Apadana tôn giả đã nói lên bài kệ rằng:

"Lúc bấy giờ ta sống
Tại khu rừng Hy mã
Dạy chú thuật đến cả
Năm bốn ngàn học trò
Các học trò của ta
Thành tựu tam phệ đà
Và chúng cùng nhau sống
Tại khu rừng Hy mã
Rồi một vị thiên tử
Thác từ cõi Đâu Xuất
Với chánh niệm tỉnh giác
Giáng sanh vào lòng mẹ
Khiến mười ngàn thế giới
Chấn động và rung chuyển
Đại chúng nghe chấn động
Họ kinh hoàng lo sợ
Đi đến chỗ của ta
Giọng run rẩy hỏi rằng
Quả đất nầy rung chuyển
Là bởi nhân cớ gì ?
Con xin hỏi đạo trưởng
Xin tiếp độ chúng con
Ta nói với chúng rằng
Các ngươi chớ hoảng hốt
Các ngươi chớ sợ hãi
Đây là một điềm lành
Báo hiệu Đức Bồ Tát
Giáng sanh vào mẫu thai
Ngài sẽ đem an lạc
Ban phát đến muôn loài
Trong kiếp thứ chín hai
Kể từ hiền kiếp nầy
Ta suy niệm Phật nào
Chính do thiện sự đó
Ta không biết khổ cảnh
Đây chính là kết quả
Của việc suy niệm Phật
Nay là kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não
Lời Phật dạy làm xong".

*

40- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO HERANNAKANI

Được biết trưởng lão Herannakani đã nói lên bài kệ như vầy:

"Đêm ngày lặng trôi qua
Mạng sống bị tổn giảm
Tuổi thọ của chúng sanh
Dần đi đến chấm dứt
Như nước trong con lạch"
"Kẻ ngu tạo ác nghiệp
Không biết việc mình làm
Về sau bị đau khổ
Bởi quả ác nghiệp ấy".

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padu-muttara, vị trưởng lão nầy tái sanh trong một gia đình nghèo.

Khi lớn lên phải đi làm thuê để sinh sống qua ngày.

Một hôm chàng dứt bỏ nửa mảnh vải dâng đến một vị trưởng lão tên là Sujata, vì biết trưởng lão đang cần dùng vải Pamsukula (phấn tảo).

Do phước nghiệp ấy, sau khi mạng chung, chàng được sanh lên cõi trời Đạo Lợi, luân chuyển trong hai cõi nhân thiên, đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, chàng tái sanh làm con trai của một sai nha dưới triều đưa vua Kosala và cũng là một tên tướng cướp, được đặt tên là Herannakani.

Sau khi phụ thân qua đời, chàng đảm nhận chức vị của cha. Được cảm hóa bởi uy đức của Đức Thế Tôn, lúc Ngài nhận Jetavana vihara – Kỳ Viên tịnh xá, Heranna-kani bèn giao chức vị ấy lại cho em trai của mình và đến xin phép đức vua để xuất gia.

Do duyên lành giải thoát chín muồi và do sự nhiệt tâm tinh cần tu tiến thiền quán, không bao lâu tôn giả Herannakani cũng được chứng quả Alahán.

Như trong Apadana, tôn giả đã nói lên bài kệ như vầy:

"Lúc ấy vị trưởng lão
Tên là Sujata
Đệ tử của Thế Tôn
Padumuttara
Đang tìm vải phấn tảo
Chỗ đống rác vệ đường
Bấy giờ, ta làm thuê
Tại Hamsavati
Nhìn thấy vị trưởng lão
Đang tìm kiếm vải bỏ
Ta phát tâm trong sạch
Cúng dường nửa mảnh vải
Và cúi đầu đãnh lễ
Tôn kính vị trưởng lão
Chính do thiện nghiệp ấy
Sau khi ta mạng chung
Được sanh cõi Đạo Lợi
Ba mươi một lần làm
Vị Thiên vương Đế Thích
Bảy mươi bảy lần sanh
Làm vị chuyển luân vương
Và nhiều lần được sanh
Làm vua đại quốc độ
Do dâng nửa mảnh vải
Ta thành người vô úy
Trong kiếp thứ 100.000
Lui từ hiền kiếp nầy
Ta đã dâng cúng ấy
Ta không biết khổ cảnh
Đây chính là kết quả
Việc dâng nửa mảnh vải
Nay là kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não
Lời Phật dạy làm xong".

Một hôm. Do nhìn thấy em của mình thích thú trong những việc xấu, rồi với mục đích khuyên nhủ em trai từ bỏ ái hạnh, trưởng lão đã nói lên hai bài kệ rằng:

"Đêm ngày lặng trôi qua
Mạng sống bị tổn giảm
Tuổi thọ của chúng sanh
Dần đi đến chấm dứt
Như nước trong con lạch"
"Kẻ ngu tạo ác nghiệp
Không biết việc mình làm
Về sau bị đau khổ
Bởi quả ác nghiệp ấy".

*

41- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO URUVELAKASSAPA

Được biết trưởng lão Uruvelakassapa đã nói lên bài kệ như vầy:

"Thấy được các thần thông
Gotama danh tiếng
Bị ganh, mạn lừa dối
Nên ta chưa thần phục"
"Bậc Điều ngự loài người
Biết được tâm tư ta
Cảnh tỉnh, ta kinh cảm
Kỳ diệu lông dựng ngược"
"Xưa ta thuộc bện tóc
Sự thành tựu bé nhỏ
Từ bỏ lối tu ấy
Ta xuất gia đầu Phật"
"Xưa hoan hỉ tế tự
Vây quanh với cảnh dục
Sau ta bứng tận gốc
Cả tham sân và si"
"Ta biết các đời trước
Thiên nhãn ta thanh tịnh
Thần thông, biết tâm người
Và chứng đạt thiên nhỉ"
"Do đích gì xuất gia
Bỏ nhà, sống không nhà
Ta đạt được đích ấy
Mọi kiết sử đoạn tận".

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumut-tara, vị trưởng lão nầy tái sanh trong một gia đình Bà la môn.

Một hôm, trong lúc nghe pháp, vị Bà la môn nầy thấy Đức Thế Tôn biểu dương một vị tỳ khưu đệ nhất về đồ chúng, tự mình cảm thấy thỏa thích với thành tựu ấy, nên Bàlamôn nầy đến cung thỉnh Đức Phật cùng đại chúng tỳ khưu về nhà cúng dường đại thí. Sau khi cúng dường xong, ông đãnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn và phát nguyện rằng:

"Do phước báu mà con đã trong sạch cúng dường trai phạn, cầu mong trong thời vị lai con được thành tựu như vị tôn giả kia vậy".

Đức Thế Tôn dùng Phật nhãn quán chiếu thấy nguyện vọng của vị Bàlamôn nầy sẽ được thành tựu, nên Ngài tiên đoán rằng: "Trong vị lai vào thời giáo pháp Đức Thế Tôn Gotama, vị Bàlamôn nầy sẽ là đại Thinh văn của Đức Thế Tôn và sẽ là vị tỳ khưu đệ nhất về đồ chúng".

Sau khi mạng chung, vị Bàlamôn nầy được tái sanh nhàn cảnh, luân chuyển giữa hai cõi trời và người một thời gian dài, đến cuối kiếp 92 từ hiền kiếp nầy, vị Bàlamôn ấy tái sanh làm em trai khác mẹ với Đức Thế Tôn Phussa. (Theo tục lệ chư Phật, sau khi sanh Bồ Tát bảy ngày, mẹ Bồ Tát tức hoàng hậu của vua Seyyasana mạng chung sanh lên cõi Đâu Xuất. Đức vua chọn một thứ phi chăm sóc cho Bồ tát, bà thứ phi nầy sanh được ba người con trai. Vị Bàlamôn tiền thân của trưởng lão là hoàng huynh.

Sau khi Bồ Tát Phussa từ bỏ hoàng cung xuất gia chứng đạt vô thượng Chánh Đẳng Giác, ba vị thái tử nầy vẫn sống đời cư sĩ, chăm lo công việc triều chính với phụ vương và trở thành ba người cận sự nam nhiệt thành và sùng kính tam bảo, luôn hộ độ cúng dường và phụng sự cho tam bảo.

Một lần nọ, cả ba vị thái tử sau khi bình định biên cương, được phụ vương ban cho đặc ân, ba vị thái tử nầy đã tận dụng đặc ân đó tổ chức cúng dường trọng thể đến Đức Phật và đại chúng tỳ khưu.

Khi thọ mạng đã mãn, cả ba vị thái tử được tái sanh lên thiên giới, sau khi luân chuyển hưởng phước trong cõi trời và cõi người, đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, ba vị thái tử nầy cũng được tái sanh làm anh em trong một gia đình Bàlamôn, tại thành Savatthi cả ba đều có tên là Kassapa vì lấy theo giòng họ.

Sau khi trưởng thành, cả ba anh em học xong tam phệ đà, người anh cả có 500 thanh niên tùy tùng, người anh giữa có 300, người em út có 200 thanh niên tùy tùng. Dù đã thông đạt ba tập phệ đà nhưng ba nah em không thấy được sự huyền diệu từ nơi kinh điển ấy, nên cả ba quyết định xuất gia làm đạo sĩ.

Người anh cả dẫn 500 tùy tùng của mình đi đến Uruvela mới có tên là Uruvelakassapa.

Người anh giữa dẫn 300 tùy tùng của mình đi đến bờ sông Hằng mới có tên là Nadikassapa.

Người em út dẫn 200 tùy tùng của mình đi đến xứ Gayasisa, mới có tên là Gayakassapa.

Sau khi ba anh em xuất gia làm đạo sĩ, trong thời gian nầy xảy ra một số sự kiện là Bồ Tát từ bỏ hoàng cung xuất gia chứng vô thượng Chánh Đẳng Giác, Ngài chuyển pháp luân tế độ năm anh em Kiều trần Như chứng quà Alahán, kế đến Ngài tiếp độ 55 người bạn, cầm đầu là công tử Yasa. Rồi Ngài kêu gọi 60 vị sứ giả Alahán nầy đi khắp nơi tuyên thuyết chánh pháp để tiếp độ quần sanh.

Sau khi tiếp độ nhóm Bhaddavaggiyakumara xong Đức Thế Tôn đi đến Uruvela và an ngự tại nhà thờ lửa của đạo sĩ Uruvelakassapa. Trong đêm đó Đức Thế Tôn đã sử dụng rất nhiều loại thần thông cuối cùng Ngài đã chế phục được Long Vương. Chứng kiến thần thông lực của Thế Tôn, trong lòng đã có sự khiếp sợ nhưng do tánh ngã mạn nghĩ rằng mình cao thượng hơn, nên đạo sĩ vẫn chưa thần phục. Rồi với uy nghi và đức hạnh của bậc Chánh Đẳng Giác dần dần đã thuần hóa tâm của đạo sĩ, đạo sĩ khởi lòng tin nơi Ngài và xin xuất gia cùng với các đồ chúng.

Hay tin sư huynh đã xuất gia trong giáo pháp Phật Đà, hai sư đệ bèn quăng bỏ những dụng cụ thờ lửa và đi đến chỗ Đức Thế Tôn xin xuất gia.

Cả ba sư huynh đệ cùng các đồ chúng đều được xuất gia bằng cách Ehibhikkhu.

Đức Thế Tôn dẫn 1.000 vị sa môn đi đến xứ Gaya-sisa, tại nơi ấy Đức Thế Tôn đã thuyết bài kinh Aditta-pariyaya, dứt thời pháp thoại, ba vị trưởng lão Kassapa cùng với các tùy tùng đều được chứng quả Alahán.

Như trong Apadana trưởng lão đã nói lên bài kệ rằng:

"Trong một trăm ngàn kiếp
Kể từ hiền kiếp nầy
Đức Thế Tôn hồng danh
Pa-du-mut-ta-ra
Bậc thông suốt tam giới
Sanh lên trong thế gian
Ngài là Bậc Đạo Sư
Dẫn dắt loài hữu tình
Vượt qua bể luân hồi
Ngài là đấng Đại bi
Đầy đủ lòng bi mẫn
Tìm lợi ích cho đời
Ngài tiếp độ ngoại đạo
Quay về với chánh pháp
An trú trong phạm hạnh
Vi Đại Ẩn Sĩ ấy
Màu da như vàng ròng
Đầy đủ các tướng tốt
Bấy giờ các chúng sanh
Thọ một trăm ngàn năm
Với tuổi thọ như thế
Thế Tôn đã tiếp độ
Cho vô số chúng sanh
Vượt khỏi vòng luân hồi
Vào lúc ấy ta sanh
Làm vị Bàlamôn
Tại Ham-sa-va-ti
Ta đến yết kiến Phật
Nghe Ngài giảng chánh pháp
Một hôm ta nhìn thấy
Đức Thế Tôn biểu dương
Một vị đại đệ tử
Đệ nhất về đồ chúng
Thỏa thích vị trí ấy
Ta đã cung thỉnh Ngài
Cùng đại chúng tỳ khưu
Về cúng dường trai phạn
Sau khi cúng dường xong
Ta tiến đến đãnh lễ
Dưới chân Đức Thế Tôn
Rồi phát nguyện như vầy
Kính bạch bậc Đại Hùng
Do niềm tin trong sạch
Và phước báu cúng dường
Xin cho con trở thành
Đệ nhất về đồ chúng
Trong các kiếp tái sanh
Xin cho con có được
Nhiều đồ chúng tùy tùng
Bấy giờ Đức Thế Tôn
Với âm giọng tuyệt diệu
Phán giữa hội chúng rằng
Hãy nhìn Bàlamôn
Màu da như vàng ròng
Mắt miệng như đóa sen
Thân tâm đầy phỉ lạc
Tịnh tín nơi tam bảo
Phát nguyện dưới chân ta
Được đệ nhất đồ chúng
Kể từ nay cho đến
Một trăm ngàn kiếp nửa
Có vị Chánh Đẳng Giác
Hồng danh Phussa
Bậc Đạo Sư tối thượng
Không có ai sánh bằng
Sanh lên trong thế gian
Ngài xua tan bóng tối
Khiến mưa pháp bất tử
Rơi xuống khắp thế gian
Cho trời người no lòng
Bấy giờ anh em ta
Là thái tử của vua
Tại Baranasi
Cũng là những dũng tướng
Đầy đủ với sức mạnh
Không hề bị chiến bại
Lúc ấy nơi biên địa
Có phiến loạn nổi lên
Phụ vương bảo ta rằng
Các con hãy đem quân
Ra tận vùng biên ải
Với sức mạnh của mình
Giữ an bình bờ cõi
Ta quỳ tâu vua rằng
Thưa phụ vương của con
Nếu Ngài ban Đức Phật
Cho chúng con hộ độ
Lễ bái và cúng dường
Chúng con sẽ xã thân
Giữ an lành bờ cõi
Đức vua nghe tâu qua
Ngoài hoan hỉ chấp nhận
Ban cho đặc ân ấy
Rồi ba vị thái tử
Cùng với các tướng sĩ
Bình định phiến loạn xong
Khải hoàn ca trở về
Nhận đặc ân từ vua
Hộ độ cúng dường Phật
Cùng đại chúng tỳ khưu
An trú trong giới hạnh
Sống câu hữu với bi
Hộ độ tứ vật dụng
Với y phục đặc biệt
Với thực phẩm thượng vị
Trú xứ thật khả ý
Và dược phẩm thích hợp
Phát sanh thuận theo pháp
Đến Phật cùng Tăng chúng
Sau khi ta mạng chung
Sanh lên cõi Đạo Lợi
Hưởng thiên lạc cõi ấy
Đây chính là kết quả
Của việc cúng dường Phật
Có một kiếp ta sanh
Làm vua Vi-de-ha
Vì tin theo lời nói
Của ngoại đạo lỏa thể
Ta rơi vào tà kiến
Không ủng hộ quan điểm
Của công chúa Ru-ca
Khi được lời giáo huấn
Phạm thiên Na-ra-da
Ta từ bỏ tà kiến
Thực hành thập thiện nghiệp
Đầy đủ và đặc biệt
Sau khi ta mạng chung
Được tái sanh nhàn cảnh
Đến kiếp cuối cùng nầy
Ta sanh trong gia đình
Bà la môn giàu có
Tại Ba-ra-na-si
Ta sợ hãi sự già
Sự bện và sự chết
Ta đi vào rừng sâu
Tìm đạo lộ bất tử
Xuất gia làm đạo sĩ
Bấy giờ, hai em ta
Cùng hoan hỉ tu theo
Ta dựng lên am thất
Tại Uru-ve-la
Ta lấy tên theo họ
Danh xưng Kas-sa-pa
Ta có năm trăm trò
Em giữa có ba trăm
Em út có hai trăm
Các học trò của ta
Tôn kính vâng lời ta
Bấy giờ, Đức Thế Tôn
Bậc cao quý tam giới
Bậc Đánh xe Điều Ngự
Ngài đi đến chỗ ta
Dùng thần thông cảm hóa
Tiếp độ anh em ta
Thành E-hi-bhik-khu
Chứng đạt quả vô sanh
Cùng với các tùy tùng
Các vị tỳ khưu ấy
Tôn kính nghe giáo giới
Đoanh vây thành đồ chúng
Do vậy Đức Thế Tôn
Giữa Tăng biểu dương ta
Đệ nhất về đồ chúng
Nay là kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não
Lời Phật dạy làm xong".

*

Sau khi chứng đạt Alahán, trưởng lão Uruvela-kassapa ôn lại thành quả của mình, nói lên chánh trí với sáu bài kệ rằng:

"Thấy được các thần thông
Gotama danh tiếng
Bị ganh mạn lừa dối
Nên ta chưa thần phục"
"Bậc điều ngự loài người
Biết được tâm tư ta
Cảnh tỉnh, ta kinh cảm
Kỳ diệu lông dựng ngược"
"Xưa ta thuộc bện tóc
Sự thành tựu bé nhỏ
Từ bỏ lối tu ấy
Ta xuất gia đầu Phật"
"Xưa hoan hỉ tế tự
Vây quanh với cảnh dục
Sau ta bứng tận gốc
Cả tham, sân và si"
"Ta biết các đời trước
Thiên nhãn ta thanh tịnh
Thần thông biết tâm người
Và chứng đạt thiên nhỉ"
"Do đích gì xuất gia
Bỏ nhà sống không nhà
Ta đạt được đích ấy
Mọi kiết sử đoạn tận".

-ooOoo-

 Ðầu trang | 01 | 02 | 03 | Mục lục



[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 02-09-2007