[BuddhaSasana]

[Unicode Fonts]


  

Pháp trích lục
Huỳnh Văn Niệm soạn dịch


Tập 1

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasambudhassa.

1. Ba tháng trước khi Ðức Phật Thích Ca Gotama nhập Niết Bàn

Sáng sớm, Ðức Thế Tôn mặc y mang bát đi trì binh về phía thành Vesali. Sau khi trở về độ ngọ xong, Ngài dạy Ðại Ðức Ananda như vầy: "Này Ananda, ngươi hãy mang theo một chiếc chiếu cho Như Lai vào nghỉ trưa tại thánh địa Chapala". Ðức Ananda liền ôm chiếu đi theo sau Ðức Phật.

Khi đến nơi, Ngài an tọa trên chiếu và Ðức Ananda cung kính ngồi bên ngoài gần đó. Bỗng nhiên Ðức Phật mở lời:

"Này Ananda, thành Vesali thật tráng lệ huy hoàng làm sao! Lại còn nhiều thắng cảnh khác rất hấp dẫn thú vị biết bao! Như những thánh địa Udena và Gotamaka, thánh địa Bảy Cây Xoài, những thánh địa Sarandada và Chapala". Rồi Ðức Thế Tôn thuyết tiếp:

"Này Ananda, người nào đã thực hành, đã làm phát triển, đã thành đạt bốn pháp "Tứ Như Ý Túc" (hay là Tứ Thần Túc), đã vượt lên tới tột điểm của Pháp Môn ấy và có khả năng điều khiển nó tùy theo sở thích, thì người dùng đó làm phương tiện, làm căn bản. Nếu muốn, người có thể kéo dài đời sống tới một kiếp trái đất hoặc suốt thời gian còn lại của kiếp ấy".

"Này Ananda, Như Lai đã thực hành và thành đạt hoàn toàn bốn Pháp Tứ Như Ý Túc và biết dùng chúng làm phương tiện. Nếu muốn, Ta có thể kéo dài cuộc sống bằng một kiếp trái đất hay suốt thời gian còn lại của kiếp đó".

Thật rất rõ rệt. Nhưng ngài Ananda lại không nhận thức được sự gợi ý của Ðức Thế Tôn nên vẫn im lặng, chẳng tỏ một lời thành khẩn: "Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài rộng lòng từ bi bác ái ở lại với chúng con cho tới hết kiếp quả địa cầu. Ở lại vì hạnh phúc của phần đông. Ở lại vì tình thương đối với chúng sanh, vì lợi ích an vui cho khắp chư thiên và nhân loại". Rủi thay, khi ấy tâm trí của Ðức Ananda bị Ma vương ám ảnh.

Ðức Phật lập lại những lời nói đó đến lần thứ nhì, lần thứ ba, nhưng ngài Ananda vẫn lặng thinh.

Rồi Ðức Phật dạy Ðại đức Ananda di hành sự tùy ý để cho Ngài an nghỉ. Ðại đức Ananda đi vòng qua bên phải Ðức Thế Tôn, kính cẩn đảnh lễ rồi tìm đến dưới một cội cây, ngồi cách xa nơi đó.

Vừa lúc ấy Ma vương hiện đến, đứng trước Ðức Ðại Giác và khẩn cầu: "Kính bạch Ðấng Chí Tôn, xin Ngài hãy ra đi nội hôm nay. Ðã đến lúc Ngài nên diệt độ cho xong để giữ đúng lời hứa hẹn khi Ngài vừa thành đạo. Lúc đó Ngài có nói như vầy: "Này Ma vương xấu xa tội lỗi. Như Lai chỉ ra đi khi nào các đệ tử khắp hàng tứ chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, thiện nam, tín nữ có đầy đủ đức tin cao cả và được thuần thục trong Giáo Pháp. Khi nào chúng trở nên nhiệt thành dễ dạy, học thức uyên thâm. Khi nào các đệ tử thông suốt Giáo Lý, biết tẩy trừ những điều xấu xa tội lỗi. Khi nào chúng biết sống theo lẽ phải, nghiêm trì giới luật, có đủ khả năng làm phát triển chân lý, biết truyền bá Chánh Pháp một cách giỏi giắn rành mạch. Khi nào các đệ tử có đủ tài đức phổ biến Giáo Lý và làm cho Chánh Ðạo được lan rộng khắp nơi".

Ma vương tiếp:

"Kính bạch Ðấng Chí Tôn Chí Thánh, hiện nay các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni trong Tăng Hội, nhưng môn đệ nam nữ tại gia đều có đầy đủ đức tin và thuần thục trong Giáo Pháp, đều nhiệt thành dễ dạy, học thức uyên thâm, đều suốt thông Giáo Lý, biết tẩy trừ những tật xấu xa tội lỗi, đều biết sống theo lẽ phải, nghiêm trì Giới Luật, có đủ khả năng làm phát triển Chân Lý, truyền bá Chánh Pháp một cách giỏi giắn rành mạch, biết phổ biến Giáo Lý và khuếch trương Chánh Ðạo lan rộng khắp nơi.

"Kính bạch Ðấng Chí Tôn Chí Thánh, vậy xin Ngài hãy ra đi nội hôm nay. Ðã đến lúc Ngài nên diệt độ cho xong để giữ đúng lời cam kết khi vừa thành đạo".

Khi Ma vương dứt lời, Ðức Phật đáp:

"Này Ma vương xấu xa tội lỗi, vậy ngươi nên vững dạ, toại chí reo mừng đi. Ðấng Chánh Ðẳng Chánh Giác sẽ lìa bỏ trần gian trong những ngày sắp tới. Kể từ hôm nay, hết ba tháng nữa Như Lai sẽ nhập Niết Bàn".

Tại thánh địa Chapala, với tâm trí hoàn toàn sáng suốt, Ðức Thế Tôn đã dứt khoát về cuộc đời trên cõi thế.

Và lúc Ngài quyết định vừa xong, quả địa cầu chuyển động vô cùng khủng khiếp, vòm trời tối sầm ảm đạm, sấm sét tủa vang rền khắp bốn phương tám hướng. Ðức Thế Tôn ngâm kệ:

Ðấng Ðại Hiền từ bỏ định kỳ về lẽ sống,
Sa thải những căn nguyên lớn nhỏ của kiếp nhân sinh.
Với nội tâm an tỉnh nhẹ nhàng, Ngài phá vỡ mảnh thiết y,
Nguồn gốc của cuộc đời huyền ảo."

Khi ấy Ðại đức Ananda phát tâm suy nghĩ: Thật lạ thay! Kỳ diệu thay! Tại sao quả địa cầu chuyển động khủng khiếp như thế? Tại sao sấm sét lại bủa khắp vòm trời? Nghĩ xong Ngài đến nơi Phật ngự, cung kính đảnh lễ, ngồi kế bên và nói: "Bạch Ðức Thế Tôn, thật lạ thay! Kỳ diệu thay! Chẳng biết do duyên cớ nào, do nguyên nhân gần hay xa mà quả địa cầu chuyển động mạnh mẻ và sấm sét bủa khắp vòm trời như thế?" Ðức Phật đáp:

"Này Ananda, có tám nguyên nhân gần hoặc xa làm cho trái đất rung chuyển vì quả địa cầu hùng vĩ này được thành hình trên nước, nước ở trên gió và gió ở trên hư không. Sau đây là tám nguyên nhân đó:

1) Có những lúc ngọn cuồng phong thổi mạnh làm cho khối nước lay động dữ dội. Tiếp theo đó, các lượn sóng ba đào tung bủa khắp nơi làm cho quả địa cầu rung chuyển. Ðây là nguyên nhân gần hoặc xa thứ nhứt làm cho quả địa cầu chuyển động.

2) Khác nữa là trường hợp một đạo sĩ hay Bà La Môn có nhiều năng lực nhiệm mầu do pháp Thiền Ðịnh, biết chế ngự nội tâm, hoặc một thiên thần nào đó tham thiền về thành phần nhỏ của chất đất rồi đem nó ra so sánh với khối nước rộng lớn bao la. Trạng thái phân chia lớn nhỏ về các hiện tượng vật chất đó là một phương tiện hữu hiệu mà những hành giả kể trên có thể áp dụng để làm rung chuyển quả địa cầu. Ðây là nguyên nhân gần hay xa thứ hai làm cho quả địa cầu chuyển động.

3) Khác nữa là trường hợp một vị Bồ Tát, sáng suốt biết mình rời khỏi cung trời Ðâu Suất giáng trần để kết vào thai bào. Ðây là nguyên nhân gần hay xa thứ ba làm cho quả địa cầu chuyển động.

4) Khác nữa là trường hợp Ðức Bồ Tát sáng suốt biết mình rời khỏi lòng mẹ. Ðây là nguyên nhân gần hay xa thứ tư làm cho quả địa cầu chuyển động.

5) Khác nữa là trường hợp Ðấng Như Lai được hoàn toàn giác ngộ thành đạt đạo quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Giác. Ðây là nguyên nhân gần hay xa thứ năm làm cho quả địa cầu chuyển động.

6) Khác nữa là trường hợp một Ðức Phật Toàn Giác chuyển bánh xe Pháp để cứu độ chúng sanh. Ðây là nguyên nhân gần hay xa thứ sáu làm cho quả địa cầu chuyển động.

7) Khác nữa là trường hợp một Ðấng Như Lai quyết định rời khỏi thế gian. Ðây là nguyên nhân gần hay xa thứ bảy làm cho quả địa cầu chuyển động.

8) Khác nữa là trường hợp mộ Ðấng Như Lai hoàn toàn tịnh tịch vào cõi Niết Bàn, không còn dư sót gì trên cõi thế (ngũ uẩn tuyệt đối tan rã, vô dư y Niết Bàn). Ðây là nguyên nhân gần hay xa thứ tám làm cho quả địa cầu chuyển động."

-- Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Trường Bộ

2. Tám Kiến Thức Cao Thượng

"Này Ananda, còn đây là tám kiến thức cao thượng (liên quan đến sắc trần và các giác quan):

1) Khi người giới tử có tư tưởng chủ quan về sắc trần nhìn thấy ở ngoài bản thân vật chi cao quý hay hèn hạ, vừa lòng hay phật ý, có tánh cách hữu biên (có giới hạn) mà biết chế ngự nó (không chấp). Người sáng suốt nhận định đúng theo chân lý về những gì mình đã thấy, đã biết. Ðó là kiến thức cao thượng thứ nhứt (liên quan đến sắc trần và các giác quan).

2) Khi người giới tử có tư tưởng chủ quan về sắc trần nhìn thấy ở ngoài bản thân vật chi cao quý hay hèn hạ, vừa lòng hay phật ý, có tánh cách vô biên (không có giới hạn) mà biết chế ngự nó. Người sáng suốt nhận định đúng theo chân lý về những gì mình đã thấy, đã biết. Ðó là kiến thức cao thượng thứ hai.

3) Khi người giới tử không có tư tưởng chủ quan về sắc trần nhìn thấy ở ngoài bản thân vật chi cao quý hay hèn hạ, vừa lòng hay phật ý, có tánh cách hữu biên mà biết chế ngự nó. Người sáng suốt nhận định đúng theo chân lý về những gì mình đã thấy, đã biết. Ðó là kiến thức cao thượng thứ ba.

4) Khi người giới tử không có tư tưởng chủ quan về sắc trần nhìn thấy ở ngoài bản thân vật chi cao quý hay hèn hạ, vừa lòng hay phật ý, có tánh cách vô biên mà biết chế ngự nó. Người sáng suốt nhận định đúng theo chân lý về những gì mình đã thấy, đã biết. Ðó là kiến thức cao thượng thứ tư.

5) Khi người giới tử không có tư tưởng chủ quan về sắc trần nhìn thấy ở ngoài bản thân vật chi có màu xanh, hình dáng xanh, phản chiếu ra sắc xanh như bông cây gai mang màu xanh, có hình dáng xanh, phản chiếu ra màu xanh; hoặc thứ nhung xanh làm tại thành Bénarès ửng ra màu xanh cả hai mặt. Người giới tử sáng suốt nhận định đúng theo chân lý về vật gì mang màu xanh mà mình đã thấy, đã biết và chế ngự nó. Ðó là kiến thức cao siêu thứ năm.

6) Khi người giới tử không có tư tưởng chủ quan về sắc trần nhìn thấy ở ngoài bản thân vật chi có màu vàng, hình dáng vàng, phản chiếu ra sắc vàng như bông Kanikara mang màu vàng có hình dáng vàng, phản chiếu ra màu vàng; hoặc thứ nhung vàng làm tại thành Bénarès ửng ra màu vàng cả hai mặt. Người giới tử sáng suốt nhận định đúng theo chân lý về vật gì mang màu vàng mà mình đã thấy, đã biết và chế ngự nó. Ðó là kiến thức cao siêu thứ sáu.

7) Khi người giới tử không có tư tưởng chủ quan về sắc trần nhìn thấy ở ngoài bản thân vật chi có màu đỏ, hình dáng đỏ, phản chiếu ra sắc đỏ như bông Bandhu Givaka mang màu đỏ có hình dáng đỏ phản chiếu ra màu đỏ; hoặc thứ nhung đỏ làm tại thành Bénarès ửng ra màu đỏ cả hai mặt. Người giới tử sáng suốt nhận định đúng theo chân lý về vật gì mang màu đỏ mà mình đã thấy, đã biết và chế ngự nó. Ðó là kiến thức cao siêu thứ bảy.

8) Khi người giới tử không có tư tưởng chủ quan về sắc trần nhìn thấy ở ngoài bản thân vật chi có màu trắng, hình dáng trắng, phản chiếu ra sắc trắgn như ánh sao mai mang màu trắng có hình dáng trắng, phản chiếu ra màu trắng; hoặc thứ nhung trắng làm tại thành Bénarès ửng ra màu trắng cả hai mặt. Người giới tử sáng suốt nhận định đúng theo chân lý về vật gì mang màu trắng mà mình đã thấy, đã biết và chế ngự nó. Ðó là kiến thức cao siêu thứ tám.

-- Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Trường Bộ

3. Tám giai đoạn thoát ly ra khỏi ảnh hưởng của tâm ái dục về các sắc trần

"Này Ananda, sau đây là tám giai đoạn thoát ly ra khỏi ảnh hưởng của tâm ái dục về các sắc trần.

1) Khi người mang một sắc tướng (xác thân), biết nhìn xem những sắc tướng khác. Ðây là giai đoạn giải thoát thứ nhứt.

2) Khi người biết mình không mang một sắc tướng, biết nhìn xem những sắc tướng ở ngoài bản thân. Ðây là giai đoạn giải thoát thứ hai.

3) Khi người có ý nghĩ "Ðó là tốt tươi đẹp đẽ" rồi hoàn toàn bị cảm nghĩ đó thu hút. Ðây là giai đoạn giải thoát thứ ba.

4) Khi người vượt qua khỏi ý nghĩ về hình sắc, không còn xúc động bởi sự va chạm với sắc trần, chẳng quan tâm đến tư cách khác biệt về hình sắc và nghĩ rằng: "Toàn là Hư Không Vô Biên". Lúc đó người ở vào tình trạng "Không Vô Biên". Ðây là giai đoạn giải thoát thứ tư. (Bậc thiền vô sắc thứ nhứt, "Không Vô Biên Thiên").

5) Vượt qua khỏi giai đoạn Không Vô Biên, người suy nghĩ: "Chỉ toàn là Tri Giác Vô Biên và bước vào trạng thái "Thức Vô Biên". Ðây là giai đoạn giải thoát thứ năm (Bậc thiền vô sắc thứ hai, "Thức Vô Biên Thiên").

6) Vượt qua khỏi giai đoạn Thức Vô Biên, người suy nghĩ: "Chẳng có gì cả và bước vào trạng thái "Vô Hữu". Ðây là giai đoạn giải thoát thứ sáu. (Bậc thiền vô sắc thứ ba, "Vô Hữu Sở Thiên").

7) Vượt qua khỏi giai đoạn Vô Hữu, người suy nghĩ: "Chỉ toàn là trạng thái Không Có Không Không về tư tưởng và bước vào lảnh vực "Phi Phi Tưởng". Ðây là giai đoạn giải thoát thứ bảy. (Bậc thiền vô sắc thứ tư "Phi Phi Tưởng Thiên").

8) Vượt qua khỏi lảnh vực Phi Phi Tưởng, người bước vào trạng thái cuối cùng cao tột, chẳng còn tư tưởng và cảm giác gì cả: "Diệt Thọ Tưởng" (Giải thoát hoàn toàn). Ðây là giai đoạn giải thoát thứ tám.

-- Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Trường Bộ

4. Lời hứa với Ma vương

"Này Ananda, một thuở nọ, vừa sau khi thành đạo và lúc Như Lai đang ngồi nghỉ dưới cội cây Nigrodha trên bờ sông Neranjara (Sông Ni Liên) thì Ma vương xấu xa tội lỗi hiện đến trước mặt Ta và nói: "Hởi Ðấng Chí Tôn Chí Thánh! Xin Ngài hãy ra đi nội hôm nay, hãy diệt độ nội hôm nay. Ðã đến lúc Ðấng Chí Tôn nhập Niết Bàn".

"Này Ananda, Như Lai liền đáp:

"Này Ma vương xấu xa tội lỗi, Ta không khi nào tịch diệt trước khi Tăng chúng và hàng thiện nam tín nữ tại gia có đầy đủ đức tin, trở nên thuần thục dễ dạy, thông suốt ghi nhớ Giáo Pháp từ phần phụ thuộc tới phần chánh yếu và có đủ tài đức đem ra giảng giải, chỉ giáo rành mạch, phổ biến rộng rải để đối phó với những lý thuyết sai lầm tà vạy... Ta không khi nào nhập diệt trước khi Giáo Lý trong trắng toàn hảo của Ta xây dựng chưa được khuếch trương rộng rải đến hàng nhân loại, Chánh Pháp chưa được thạnh hành phong phú".

"Này Ananda, và hôm nay, tại thánh địa Chapala, Ma vương cũng vừa hiện đến nhắc lại những lời Ta thốt ra khi trước. Như Lai cũng đã trả lời: "Hởi Ma vương xấu xa tội lỗi! Ngươi hãy toại chí vui mừng đi. Ta sẽ ra đi trong những ngày sắp tới. Kể từ hôm nay, hết ba tháng nữa Như Lai sẽ nhập Niết Bàn".

"Này Ananda, và cũng trong hôm nay, tại thánh địa Chapala, Ðức Như Lai đã sáng suốt dứt khoát cuộc đời trên cõi thế".

Sau khi Ðức Thế Tôn dứt lời, Ðại đức Ananda mới thiết tha thành khẩn: "Bạch Ðấng Ðại Giác, xin Ngài rộng lượng từ bi bác ái ở lại với chúng con cho hết kiếp này. Ở lại vì tình thương đối với chúng sanh. Ở lại vì lợi ích an vui cho phần đông. Ở lại vì hạnh phúc của chư thiên và nhân loại".

Phật đáp:

"Này Ananda, không thể được, ngươi chớ cố khẩn cầu. Thời kỳ van xin đã qua rồi".

Ðại đức Ananda lập lại lời khẩn nguyện lần thứ nhi, lần thứ ba

Ðức Phật nói:

"Này Ananda, hỏi vậy ngươi có đức tin nơi Tuệ Giác của Như Lai không?".

- "Bạch Ðức Thế Tôn, đệ tử đã tin chắc".

- "Như vậy tại sao ngươi còn làm rộn Ta đến lần thứ ba?"

- "Bạch Ðức Thế Tôn, chính đệ tử có nghe từ cửa miệng Ngài thuyết ra như vầy: "Người nào đã thực hành, đã làm phát triển và đã thành đạt bốn Pháp Tứ Như Ý Túc, đã vượt lên tới tột điểm của pháp môn ấy và có khả năng điều khiển nó tùy theo sở thích, thì người dùng đó làm một phương tiện, một căn bản. Nếu muốn, người có thể kéo dài đời sống bằng một kiếp trái đất hoặc suốt thời gian còn lại của kiếp đó. Và Ðức Như Lai cũng đã thực hành và thành đạt bốn Pháp Tứ Như Ý Túc. Nếu muốn, Ngài có thể kéo dài cuộc sống bằng một kiếp trái đất hay suốt thời gian còn lại của kiếp đó".

Phật hỏi:

"Ngươi đã nhớ chắc như vậy?"

- "Bạch Ðức Thế Tôn phải".

- "Ðó là lỗi tại ngươi. Như Lai đã ngỏ lời rõ ràng minh bạch. Nhưng vì quá tối tăm nên ngươi không suy đoán ra sự gợi ý và chẳng khẩn cầu Ta ở lại. Ðức Như Lai có thể khước từ hai lượt trong lúc đó, nhưng tới lần thứ ba ắt đã nhận lời. Ðó là lỗi tại ngươi. Vì ngươi quá tối mê lầm lẫn.

"Này Ananda, và cũng trong hôm nay, tại thánh địa Chapala. Như Lai có gợi ý như vầy: "Thành Vesali thật tráng lệ huy hoàng làm sao! Lại còn có nhiều thắng cảnh khác rất hấp dẫn thú vị biết bao! Như những thánh địa Udena và Gotamaka, thánh địa Bảy Cây Xoài, hai thánh địa Sarandada và Chapala. Rồi Ta lại nói: "Người nào đã thực hành, đã làm phát triển, đã thành đạt bốn Pháp Tứ Như Ý Túc, đã vượt lên tột điểm của Pháp Môn đó và có khả năng điều khiển nó tùy theo sở thích, thì người dùng đó làm một phương tiện, một căn bản. Nếu muốn, người có thể kéo dài đời sống bằng một kiếp trái đất hoặc suốt thời gian còn lại của kiếp đó. Ta cũng có nói:

"Như Lai đã thực hành và thành đạt hoàn toàn bốn Pháp Tứ Như Ý Túc và biết dùng chúng làm phương tiện. Nếu muốn, Ta có thể kéo dài đời sống bằng một kiếp trái đất ha suốt thời kỳ còn lại của kiếp đó. Nếu không tối mê và suy đoán được những điều ấy, hẳn ngươi đã thỉnh cầu Như Lai ở lại. Ta có thể khước từ lần thứ nhứt, lần thứ hai, nhưng chấp nhận đến lượt thứ ba. Ðó là lỗi tai ngươi. Vì ngươi đã tối mê lầm lẫn".

"Này Ananda, giờ đây Ta nhắc lại những lời đã công bố trước kia rằng: "Bản chất của những vật cấu tạo thân yêu trìu mến là vô thường khốn quẩn. Thế nào cũng xa lìa chúng. Không sao khác được. Mỗi vật được thành hình do sự phối hợp, tất nhiên phải có ngày tan rã. Làm sao tránh khỏi sự đổ vỡ đặng? Không tìm đâu ra một trường hợp như vậy.

"Này Ananda, bởi lẽ đó Như Lai đã vất bỏ xác thân, đã thoát ly ra khỏi quan niệm về sắc tướng chẳng ngại gì đến sự kéo dài kiếp sống, nên Ta đã dứt khoát công bố: "Ðấng Như Lai sẽ ra đi trong những ngày sắp tới. Kể từ hôm nay hết ba tháng nữa Như Lai sẽ nhập Niết Bàn". Không vì lẽ tham sống mà Như Lai chẳng giữ lời nói? Sự việc này được quyết định với đầy đủ trí tuệ, không sao thay đổi đặng".

Rồi Ðức Thế Tôn dạy Ðại đức Ananda nhóm họp tất cả Tăng Chúng tại phòng giảng Kutagara để nghe lời giáo huấn trước buổi chia ly.

-- Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Trường Bộ

5. Những di ngôn tối hậu tại Vesali

Ðức Thế Tôn vào ngự trong phòng giảng Kutagara. Ngài an tọa trên bức thảm xong rồi thuyết:

"Hỡi này các Tỳ kheo! Những chân lý đã được khám phá, Như Lai đều đem ra chỉ dạy các ngươi. Các ngươi nên ráng học hỏi suốt thông, cố gắng thực hành. Các ngươi nên chú tâm quán xét về những chân lý ấy, Hãy phổ biến rộng rãi khắp gần xa làm cách nào cho Chân Pháp được trường tồn vĩnh cửu bền bỉ lâu dài vì lợi ích của phần đông, vì tình thương chúng sanh, vì hạnh phúc an vui cho chư thiên và nhân loại".

"Này các Tỳ kheo, mà những chân lý đã được khám phá và Như Lai đã đem ra chỉ dạy các ngươi là thế nào? Ðó là:

Tứ Niệm Xứ
Tứ Chánh Cần
Tứ Như Ý Túc
Ngũ Căn
Ngũ Lực
Thất Giác Chi (Bảy nhân sanh quả Bồ Ðề)
Bát Chánh Ðạo.

"Hởi các Tỳ kheo! Vậy các ngươi hãy nghe đây:

"Tất cả những vật hữu vi (cấu tạo) đều phải hư hoại. Các ngươi nên đem hết sức mình để tìm lối thoát. Ðức Như Lai sẽ tịch diệt trong những ngày sắp tới. Kể từ hôm nay, hết ba tháng nữa, Như Lai sẽ nhập Niết Bàn". Rồi Ngài ngâm kệ:

Những năm dài nay đà tròn đủ
Kiếp sống Ta cũng đã tới ngày chấm dứt.
Từ biệt các con, Như Lai sẽ ra đi,
Không nên chỉ trông cậy nơi ta.
Vậy các con hãy luôn luôn chăm chú, ghi nhớ biết mình,
Hãy bền lòng niệm tưởng, quán xét nội tâm,
Kẻ nào một dạ chẳng sờn,
Sẽ vượt qua khỏi trùng dương sanh tử,
Sẽ kết thúc tất cả những điều thống khổ.

-- Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Trường Bộ

6. Chế ngự nỗi kinh hoàng nơi rừng vắng

Thuở nọ đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên Tịnh Xá của trưởng giả Cấp Cô Ðộc, gần thành Xá Vệ, có người Bà La Môn tên Janussoni đến viếng.

Sau khi đảnh lễ, chào hỏi xã giao và ngồi xong, ông ta hỏi Phật: "Thưa thầy Gotama, có những thanh niên con nhà cao quý rất tin tưởng và xin thọ giáo cùng thầy. Họ rời bỏ gia đình như kẻ hành hương đi tìm sống lang thang trong cảnh không nhà. Họ vất vả theo đạo sĩ Gotama, tôn ông là bâc thầy và chấp nhận Giáo Lý của ông".

Ðức Phật đáp:

"Này Janussoni, chính phải vậy, có những chàng thanh niên con nhà cao quý, tin tưởng Như Lai nên đã rời gia đình như kẻ hành hương đi tìm sống lang thang trong cảnh không nhà".

- "Thưa thầy Gotama, như vậy thì chẳng có chi khốn quẩn nông nổi bằng cuộc sống nơi chốn rừng sâu hoang vắng, không người, xa thôn xa xóm. Cảnh quạnh hiu như thế hẳn đè nặng lên thầy Tỳ kheo phải sống cô đơn nơi u tịch kinh hoàng làm cho tâm trí người luôn luôn xao xuyến nếu chưa đạt tới mức độ định tâm cao cả".

- "Này người Bà La Môn, phải như vậy. Trước khi được giác ngộ, Như Lai cũng sống trong tình trạng lo âu sợ hãi như thế. Nhưng Ta lại suy nghĩ: "Thật rất khó lòng sống nơi chốn rừng sâu âm u vắng vẻ, đối với thầy đạo sĩ bỏ gia cư điền sản ra đi tìm nơi ẩn dật cô đơn hiu quạnh nhưng tâm trí không trong sạch, chứa đầy tham dục, nên phải sợ hãi kinh hoàng. Những kẻ sống nơi rừng vắng, nhưng còn tham lam, sân hận, si mê, lười biếng, có tư tưởng tà vạy, tánh tình bồn chồn ngờ vực, nhạy cảm, nên phải sợ hãi kinh hoàng. Hoặc những kẻ ẩn dật nơi rừng vắng mà còn cống cao ngã mạng ham muốn xấu xa, mong tìm danh lợi, vô nghề nghiệp khi ở ngoài đời, tánh tình bất cẩn, tìm vào rừng trú ẩn nhứt thời, hoặc muốn ngao du cho biết đây biết đó, hoặc điên rồ tọc mạch.. nên phải sợ hãi kinh hoàng. Vì chưa sắp đặt thân tâm phù hợp với cuộc sống cô đơn nên những kẻ ấy phát tâm sợ hãi kinh hoàng.

"Này người Bà La Môn, còn về phần Như Lai, khi vào ẩn dật nơi rừng vắng thì Ta đã vất bỏ tất cả những điều xấu xa nhơ nhớp đó, cố gắng giữ mình trong sạch từ hành động, từ lời nói, từ ý nghĩ, tâm trí luôn luôn an tĩnh, thắm nhuần từ bi nhẫn nại. Như Lai là một trong số những chàng thanh niên thuộc gia đình cao quý rời bỏ gia cư đi tìm sống cô đơn nơi rừng vắng hoang vu u tịch, với phẩm hạnh trong sạch thanh cao, nên ta rất hoan hỉ thích thú sống nơi rừng vắng".

"Này Janussoni, lúc đó một ý nghĩ phát sanh đến cho ta: "Tại sao ta không thừa dịp những đêm trăng khuyết hay trăng tròn, những đêm trăng thượng tuần hoặc hạ tuần, tìm rút vào chốn thâm sâu cùng cốc, an tọa dưới một cội cây, nơi thường phát sanh nhiều cảnh tượng rùng mình rởn gáy để trắc nghiệm xem mức độ kinh sợ lên cao thế nào?

"Này Janussoni, rồi thừa dịp những đêm trăng tròn, hay những đêm trăng thượng tuần hoặc hạ tuần, ta đi sâu vào rừng vắng, ngồi dưới tàng cây to, nghỉ đêm tại nơi thường phát sanh nhiều cảnh tượng rùng mình rởn gáy. Lúc ta đang tĩnh tọa, có nhiều giống thú rừng men đến gần. Một con sơn dương phóng qua phía trước. Một con công làm rớt những cành cây khô. Gió thổi rào rạt xuyên qua những lá vàng. Ta tự nghĩ: "Nỗi lo sợ kinh hoàng đã tới rồi! Mà tại sao ta lại ngồi yên để tiếp đón nó? Biết vậy, ta cương quyết sáng suốt đương đầu với thử thách và chế ngự điều sợ hãi.

"Này Janussoni, lúc ta đang đi, nỗi sợ hãi kinh hoàng lại phát sanh. Biết vậy, ta không dừng bước, không ngồi xuống, không nằm, sáng suốt cương quyết đương đầu với thử thách và chế ngự nó.

"Khi ta đang đứng, nỗi lo sợ kinh hoàng cũng phát sanh. Biết vậy, ta không đi, không ngồi, không nằm, sáng suốt cương quyết đương đầu với thử thách và chế ngự nó.

"Khi ta đang nằm, nỗi lo sợ kinh hoàng, cũng phát sanh. Biết vậy, ta không đứng dậy, không đi, không ngồi, sáng suốt cương quyết đương đầu với thử thách và chế ngự nó.

"Này Janussoni, có nhiều đạo sĩ cho rằng ngày và đêm cũng như nhau, Như Lai lại nói: "Ngày là ngày và đêm vẫn là đêm".

"Người thức thời có thể nhận định về Như Lai đúng theo chân lý như vầy: "Một con người thoát ly ra khỏi tham dục si mê đã xuất hiện trên thế gian vì lợi ích của phần đông, vì an vui hạnh phúc của chư thiên và nhân loại".

"Này Janussoni, rồi Ta nhứt quyết, tâm trí chăm chú không xao lảng, thân hình an tĩnh không rung động tập trung tư tưởng.

"Vất bỏ năm pháp chướng ngại: tham dục, sân hận, hôn trầm, phóng tâm và hoài nghi, Ta bước vào sơ thiền với tâm: Tầm, Sát, Phỉ lạc, An vui và Ðịnh.

"Tiếp theo đó, tâm Ta trở nên an tịnh và tư tưởng thăng bằng, không còn Tầm và Sát và Ta nhập vào nhị thiền.

Kế đó, Ta trở nên an vui thơ thới, thoát ly ra khỏi tham dục, tâm trí yên tĩnh, ghi nhớ biết mình và bước vào tam thiền với tâm Xả, an vui và Ðịnh, giai đoạn mà bậc hiền triết hằng hoan hô: "Hạnh phúc thay! Khi con người được an trú trong sự an tịnh và ghi nhớ biết mình!".

"Vất bỏ tất cả những nỗi vui buồn, dẹp qua một bên những ký ức khổ vui quá khứ, thân tâm an trụ thơ thới nhẹ nhàng và chỉ còn lại tâm Niệm và tâm Xả, Ta nhập vào tứ thiền.

"Này Janussoni, với tâm trí an tịnh, sáng suốt, trong sạch chẳng chút bợn nhơ, Ta tìm nhớ lại những kiếp quá khứ. Bắt đầu 1 kiếp, rồi 2, 3, 4, 5, 10, 20, 50, 100, 1.000, 100.000 kiếp. Trong mỗi kiếp tái sanh ra sao? thuộc gia đình nào? tên họ chi? làm nghề gì? vui khổ ra sao? rồi chết và tái sanh nữa với định mạng như thế nào? mỗi mỗi Ta đều biết rõ.

"Tiếp theo đó, Ta hướng tâm quan sát qua lãnh vực của các chúng sanh, thấu rõ những tình trạng sanh diệt, nghiệp báo, luân hồi, vận mạng.. của chúng.

"Sau cùng, Ta chú tâm quán xét về tư cách sanh diệt của những Nhân và Duyên đúng theo chân lý, biết rằng đây là sự khổ, đây là nguyên nhân sự khổ, đây là tư cách diệt khổ và đây là con đường đưa đến nơi dứt khổ. Biết do đâu mà phiền não phát sanh và khi tẩy trừ được: tham dục, sân hận, si mê, màn vô minh tan biến, Ta biết rằng đã được hoàn toàn giác ngộ, đã sống đầy đủ cuộc đời đạo đức, mọi việc đã làm xong và chẳng còn phận sự gì trên thế gian này nữa".

"Này Janussoni, người có thể nghĩ rằng: "Hiện nay thầy sa môn Gotama cũng chưa diệt được tham lam, sân hận, si mê. Bởi vậy thầy tìm sống cuộc đời cô độc nơi hoang vắng. Nhưng người chớ có ý nghĩ sai lầm như thế. Sở dĩ Như Lai thích sống cô đơn là vì quan niệm được nhiều điều lợi ích nơi rừng vắng âm u cô tịch. Chẳng những giờ đây Ta tìm được sự lợi ích cho bản thân, mà cũng vì lòng từ bi bác ái đối với những kẻ nào biết lấy đó làm gương để đến sau".

Tới đây thầy Bà La Môn Janussoni liền mọp xuống kính cẩn:

"Thật quả như vậy, Ðức Sa Môn đáng kính Gotama vì lòng từ bi bác ái nên đã làm gương cho những kẻ đến sau. Thật rất xứng đáng là cử chỉ của bậc thánh nhân (A La Hán) đã đi đến nơi hoàn toàn giác ngộ. Tuyệt diệu thay Ðấng Chí Tôn Gotama! Cao đẹp thay! Cũng như người ta đỡ đứng vật gì ngã trên mặt đất, như tìm được vật gì bị che giấu, như chỉ nẻo cho người lạc lối, hoặc người ta đem ngọn đèn vào chỗ tối cho những ai có mắt muốn thấy rõ mọi vật. Thì cũng như thế ấy Ðấng Chí Tôn Gotama đã giải thích Giáo Lý rõ ràng minh bạch.

"Vậy tôi xin tôn Ngài là bậc thầy và xin nương nhờ nơi Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Cầu xin Ðấng Chí Tôn nhận tôi làm đệ tử kể từ nay cho đến trọn đời".

-- Tương Ưng Bộ

Lời của dịch giả

Kinh Mahabharata có chép: "Rừng vắng thu hút những tâm hồn chán nản trầm tư mặc tưởng. Lánh xa xã hội nhơ nhớp của người đời, thầy đạo sĩ tìm ẩn dật nơi cô tịch lặng lẽ để hủy diệt lòng tham dục si mê, nguồn gốc của muôn ngàn thống khổ. Ðược tự do, chẳng còn bị vật chỉ ràng buộc, thầy sa môn có đủ khí giới đánh bại chúng bằng cách kiểm soát thân tâm. Người biết rằng diệt được tham lam, sân hận, si mê, là chiến thắng cả thế gian, cả những vùng bao la vô tận, nhứt là chiến thắng được bản thân. Người hành trình đơn độc như loài tê giác, không vợ con bè bạn và chỉ nuôi sống bằng thiền định".

Tự cổ chí kim, các bậc hiền triết muốn tìm đạo giải thoát đều lánh xa trần tục, tìm vào chốn núi cao rừng thẳm để trau giồi giới đức. Vì núi rừng có nhiều lợi thế cho những ai dũng cảm như loài chúa sơn lâm, quyết tâm trì chí tìm đến tham thiền nhập định. Rừng thẳm rất ít người lui tới, không tiếng tăm náo nhiệt ồn áo như cuộc sanh hoạt vật chất tội lỗi chốn thị thành. Nhưng người thế vẫn trớ trêu bịa đặt ra những câu châm ngôn: "Nhứt tu thị nhị tu lâm, Nhứt tu tâm nhì tu giới", trong khi mình đang quây quẩn giữa dòng đời, không ngớt bận rộn về gia đình tài sản!

Nếu đúng như vậy thì Ðức Bồ Tát Sĩ Ðạt Ta đã chẳng dại gì trốn vợ lìa con, đem chiếc ngai vàng đổi lấy cuộc đời hành khất, trải qua biết bao gian khổ, chết sống nhiều phen nơi rừng vắng âm u mới tìm ra đạo giải thoát. Những vương tôn công tử, những chàng thanh niên con nhà cao quý cũng chẳng điên gì bỏ cha mẹ nhà cửa ra đi theo vết chân của Ðức Phật và tu tập tham khổ chốn rừng sâu. Ðạo Phật là đường lối dứt bỏ các vật cấu tạo vô thường để thành đạt những gì trường tồn vĩnh cửu. Vì sớm muộn gì thân xác này cũng trở về với đất.

Ðức Phật thấu rõ tâm địa và hành vi của chúng sanh nên chẳng hề chống đối. Ngài chỉ nêu gương đức hạnh cao cả cho những kẻ thức thời, có mắt muốn thấy, có tai muốn nghe, để chọn giữa hai con đường: sanh tử khổ đau và an vui tuyệt đối.

Cũng như phần đông chúng ta hiện nay, thầy Bà La Môn Janussoni xưa kia cũng nghi ngờ về sự lợi ích của cuộc sống nơi hoang vắng nên hỏi Phật như thế.

Riêng phần Ðức Thế Tôn, tuy chẳng còn bị sắc trần lung lạc, nhưng vì lòng từ bi bác ái đối với chúng sanh, nên vẫn tiếp tục sống nơi rừng vắng chỉ nhằm mục đích làm gương cho những kẻ hậu lai. Chúng ta chớ quá ngây thơ trước những trò chơi ngôn ngữ của thế gian: "Nhứt tu thị, nhị tu lâm" để mê lầm mà tiếp tục con đường vô vọng!

Cảnh giới vắng lặng làm cho thân yên tĩnh. Thân yên tĩnh khiến tâm trở nên thanh tịnh, sáng suốt để thấy rõ trạng thái vô thường mộng ảo của thế gian, thấu rõ đâu là cõi sống và đâu là cõi chết.

Chân lý tuyệt đối này đã được các bậc hiền triết khắp thế gian chấp nhận tự ngàn xưa.

7. Dòng nước tử sanh

"Hỡi này các Tỳ kheo! Trên thế gian có bốn hạng người sau đây:

1) Người thả mình trôi theo dòng nước
2) Người bơi lội ngược dòng
3) Người chế ngự được dòng nước lũ
4) Vị sa môn vượt qua dòng nước để lên bờ bên kia và đứng vững trên đất liền.

"Vậy người thả mình trôi theo dòng nước là thế nào?

Ðó là trường hợp của người có tánh buông tuồng, bê tha theo ngũ trần, không thấu rõ tội phước

"Còn kẻ bơi lội ngược dòng? Ðó là người không để mình bị chìm đắm trong ngũ trần lục dục, không hành động xấu xa tội lỗi, biết ghê sợ các điều thống khổ, khóc lóc than van, dứt bỏ tất cả để đi tìm sống cuộc đời phạm hạnh, đem hết tâm lực trau giồi giới luật ngày thêm trong sạch thanh cao.

"Còn kẻ chế ngự được dòng nước lũ? Ðó là người đã điều ngự được nội tâm, cắt đứt hoàn toàn năm sợi dây trói mình vào thế sự nhơ bẩn thấp hèn. Sau khi từ giả cõi trần, người được sanh về thiên giới rồi chứng quả Niết Bàn, không còn trở lại thế gian này nữa (A Na Hàm, Bất Lai).

"Hỡi này các Tỳ kheo! Còn bậc sa môn đã lướt qua khỏi dòng nước lũ, sang đến bờ kia và đứng vững trên đất liền là thế nào? Ðó là nói về bậc xuất gia biết dùng trí tuệ siêu nhân sắc bén để chặt đứt cội rễ cái tâm ái dục. Người rất an vui tự tại, chẳng chút bợn nhơ, như ngọc kim cương trong sáng, và đã làm xong mọi việc phải làm trên cõi thế (A La Hán).

Sau đây là một chuyện ngụ ngôn:

"Cũng như người kia thấy con sông xuyên qua một vùng cảnh vật xanh tươi hấp dẫn, nước chảy êm đềm, trong trẻo mát mẻ, hứng chí lao mình xuống thả trôi theo dòng nước, không cần suy nghĩ lợi hại như thế nào.

"Lúc đó có một kẻ thức thời đứng trên bờ sông la lên: "Hỡi người kia! Rất nguy hại đấy. Người chớ khá dễ ngươi. Con sông này có vẻ đẹp đẽ, xuyên qua vùng cây cỏ xanh tươi hấp dẫn, nước chảy êm đềm trong trẻo mát mẻ, nhưng nếu người hờ hửng, ham vui, lao mình xuống, khi ra khúc hạ lưu sông thì sẽ bị sa vào hố sâu vực thẳm. Tại đó có sóng to gió lớn, nước xoáy bạo tàn, có nhiều loài thủy quái và cá mập hung hăng. Chừng đó sẽ nguy hại đến tánh mạng và người sẽ gặp khổ sở trăm bề".

"Nghe vậy người ấy liền dùng hết sức mình, với hai tay, hai chân, cố gắng bơi trở lên, ngược dòng để thoát nạn.

"Hỡi này các Tỳ kheo! Dòng sông tượng trưng cho lòng tham lam khao khát. Phong cảnh đẹp đẽ hấp dẫn trong vùng là mười giây trói chặt chúng sanh vào vòng sanh tử. Những hố sâu ở hạ lưu là năm điều chướng ngại xô đẩy con người sa vào cảnh giới thấp hèn. Sóng to gió lớn ám chỉ cái tâm sân hận, ganh tị, oán thù. Xoáy nước là những dục lạc của sắc trần. Cá mập là điều cám dỗ tai hại của phụ nữ. Bơi lội ngược dòng là quyết tâm dứt bỏ việc dời, tìm phương cứu rỗi. Ðem hết sức của hai bàn tay, hai chân bơi lên ngược dòng là tinh tấn, trau giồi nghị lực, cố côn hành đạo cho mau dứt khổ.

Lời của dịch giả

Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) có câu Phật ngôn: "Ðến một thời gian nào đó, nước biển cả cạn khô và nước không còn nữa. Ðến một thời gian nào đó, quả địa cầu bị thiêu hủy vở tan và đất không còn nữa. Nhưng các điều thống khổ vẫn tồn tại. Chúng sanh vẫn bị màn vô minh che lấp, vẫn sa vào cạm bẫy ái dục và vẫn chen lấn nhau, hối hả nhảy vào vòng sanh tử".

Ðức Phật cho chúng sanh thiếu khôn ngoan lại thường có tánh dễ duôi, gặp nơi nào có trò chơi khoái lạc thì bươn bả xông vào, bất chấp hậu quả sẽ ra sao.

Bốn vật chướng ngại quan trọng đánh đổ bậc xuất gia là: tiền bạc - lễ vật - lời ngợi khen và phụ nữ.

Trong kinh Sưu Tập Pháp (Pakinnakadhamma) do Ðại đức Hộ Tông soạn dịch có chép rằng lễ vật và lời ngợi khen là miếng mồi của ngư ông móc vào lưỡi câu. Thầy Tỳ kheo nào bám phải lưỡi câu tai hại đó ví như nuốt mồi của ma vương rồi bị hại. Cũng như con cá mắc phải lưỡi câu của ngư ông và mất mạng.

Kinh Sưu Tập Pháp có ghi tiếp: "Chó chóc mang bịnh ghẻ, rụng hết lông, nổi mụt mủ khắp mình, đi kiếm ăn nơi khô ráo cũng không yên, ở dưới bóng cây, nằm nơi khoảng trống và đi đến bất cứ nơi nào cũng đều chịu khổ sở chẳng được yên thân.

Thầy Tỳ kheo bị lễ vật và lời ngợi khen đè nén nội tâm rồi, dù đi đến nơi thanh vắng cũng không yên, đến ngụ nơi khoảng trống, dưới bóng cây hay bất cứ nơi nào cũng không yên và rất khổ sở, gặp nhiều tai hại. Lễ vật và lời ngợi khen hằng cắt đứt da, đứt xương, rồi đến tủy xương. Thầy Tỳ kheo mắc phải chúng sau khi chết sẽ bị sao vào bốn đường ác đạo. Cũng như chó chóc mang bịnh phải chịu khổ sở trăm bề".

Thảm họa thứ hai là phụ nữ mà Ðức Phật ví như loài cá mập háo ăn, nên dạy các đệ tử ráng ghi nhớ biết mình mỗi khi tiếp xúc. Khi tâm tư của thầy Tỳ kheo bị xao xuyến vì thinh sắc của phụ nữ rồi, tuy thân xác còn ẩn náo dưới mái thiền môn nhưng tâm địa đã rời xa cửa Phật.

8. Ðức Phật giải về tư cách vô thường của những cảnh vật thiên nhiên

"Hỡi này các Tỳ kheo! Trong thời quá khứ xa xăm, hòn núi Vipula này mang tên là Kim Qui". Dân chúng trong vùng gọi là giống người Rohitassa. Họ sống lâu tới ba vạn tuổi, phải mất ba ngày để leo lên núi và hết ba ngày để trở xuống. Khi đó nhằm thời kỳ Ðức Phật Konayamana (Cù Lưu Tôn) xuất thế. Ngài có hai người đệ tử đặc sắc nhứt là Bhiyyosa và Uttara. Thời gian sau đó cái tên núi Kim Qui không còn nữa và dân chúng Rohitassa đều phân tán. Ðức Phật Konayamana cũng nhập Niết Bàn".

"Này các Tỳ kheo, tánh cách giả tạm không bền vững của những vật cấu tạo là như thế".

"Lâu sau đó trái núi Vipula này mang tên mới là Thanh Sơn. Dân chúng tại đây thuộc giống người Suppiyas. Họ sống được hai vạn năm, phải mất hai ngày để trèo lên núi và hết hai ngày để trở xuống. Lúc đó nhằm thời kỳ Ðức Phật Kassapa (Ca Diếp) ra đời. Ngài cũng có hai trò ưu tú nhứt là Tissa và Bharadvaja. Rồi sau đó cái tên núi Thanh Sơn không còn nữa, giống người Suppiyas biến mất và Ðức Phật Kassapa cũng nhập Niết Bàn".

"Này các Tỳ kheo, tánh cách giả tạm không bền vững của những vật cấu tạo là như thế".

"Giờ đây, núi này mang tên là Vipula và dân chúng trong vùng thuộc sắc tộc Magadha. Tuổi thọ rất ngắn ngủi. Người nào sống lâu được 80 tuổi, 100 tuổi hoặc nhiều hơn vài tuổi mà thôi. Họ bỏ rất ít thời giờ để leo lên và trở xuống núi. Và hiện nay Như Lai giáng trần với hai đệ tử giỏi giắn nhứt là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên".

"Không bao lâu nữa Như Lai sẽ nhập Niết Bàn, rồi thời gian sau đó hòn núi này chẳng còn mang tên Vipula nữa, giống người Magadha trong vùng cũng bị phân tán".

"Này các Tỳ kheo, tánh cách giả tạm không bền vững của những vật cấu tạo là như thế'.

"Vậy các ngươi hãy ráng chú tâm quán xét, chớ nên say mê cố chấp, miệt mài với các vật hữu vi tạm bợ của thế gian".

-- Tương Ưng Bộ

(Xin xem tiếp Tập 2)

-ooOoo-

[Mục lục][Tập 1][Tập 2][Tập 3][Tập 4]


[Thư Mục chính]

Last updated: 29-05-2000

Web master: binh_anson@yahoo.com
binh_anson@hotmail.com