BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times font


Phật và Thánh chúng
Thích Minh Tuệ
Sài Gòn, 1990


Bài 6

Trưởng lão ÐẠI CA DIẾP
(Maha Kasyapa - Đầu đà đệ nhất)

-ooOoo-

Khi còn tại thế, trong 45 năm thuyết giáo, với hơn 300 hội, Phật để lại 8 vạn 4 ngàn pháp môn. Tùy căn cơ, trình độ, hoàn cảnh, hành giả có thể chọn tu theo một trong những pháp môn đó. Có người chuyên tu thiền định, có người niệm Phật, tụng kinh, có người trì luật, có người tu phước bố thí, có người trì bình khất thực... Với tất cả hành trì, theo Phật, hạnh nào cũng đáng kính nể, quý trọng. Trong số các Thánh chúng, Ma Ha Ca Diếp là người dốc lòng giữ gìn phạm hạnh, nên được Phật cùng Thánh chúng tôn xưng là bậc đầu đà đệ nhất.

I. QUÊ QUÁN DÒNG HỌ VÀ DANH HIỆU CỦA NGÀI MA HA CA DIẾP.

Ở Ấn Ðộ, không xa thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Ðà, tại thôn Sa La Ðà, có một gia đình thuộc dòng họ Bà La Môn rất giàu có, Ðó là Ni Câu Lự Ðà Kiệt Ba, có tài sản, có thể so sánh với vua Tần Bà Sa La lúc bấy giờ. Ðại Ca Diếp sinh trong gia đình phú hào này.

Tên đầu tiên là Tất Bát La Da Na, vì thân mẫu tôn giả đi chơi quanh gốc cây Tất Bát La thì hạ sinh tôn giả. Vì thế, lấy tên cây đặt cho đứa bé. Vì là con một trong gia đình, Ðại Ca Diếp rất được cha mẹ thương yêu, nuôi dưỡng. Nhũ mẫu có đến 4 bà, còn bồng bế, cho ăn tắm rửa, trò chơi có rất nhiều người.

Ðại Ca Diếp phước tướng đầy đủ, tư chất thông minh. Lúc lên 8, Ðại Ca Diếp đã được học văn học, toán thuật, thi họa, âm nhạc, thiên văn, số tướng... Các đạo sĩ Bà La Môn còn dạy cho Ngài Ðại Ca Diếp phép tế đàn 4 mùa, Thánh điển Phệ Ðà, nhân minh học v.v... Với các môn học, Ðại Ca Diếp đều thấu hiểu rất nhanh.

Lúc khôn lớn, Ðại Ca Diếp khác hẳn những người cùng lứa tuổi. Với các lạc thú ở đời, Ðại Ca Diếp không ham thích, kể cả vấn đề âu yếm. Ðại Ca Diếp thường tỏ chán ghét bất tịnh, thích xa đám đông, riêng ở một mình. Ngay cả cha mẹ, Ðại Ca Diếp cũng không tưởng nhớ, trong những lúc xa nhà. Bởi thế khi phải vâng lời cha mẹ lập gia đình, Ðại Ca Diếp không bao giờ ngủ chung giường với Diệu Hiền, một cô gái sắc hương không ai sánh được, dù có đôi lần bị cha mẹ la rầy.

Mỗi người mang một tâm trạng riêng, từ ngày cưới Diệu Hiền cho đến hơn cả chục năm về sau không ai nói với ai một lời nào. Im lặng lâu quá không thể nín thinh mãi được, Ðại Ca Diếp hỏi Diệu Hiền, lý do tại sao mặt lúc nào cũng buồn.

Diệu Hiền trả lời:

- Chàng đã phá hoại chí nguyện của tôi, sự giàu sang của chàng đã mê hoặc cha mẹ tôi, từ trước tôi vẫn thích phạm hạnh, ghét ngũ dục, hiện làm dâu gia đình này tôi rất lấy làm buồn!

Nghe ước vọng của Diệu Hiền không trái với ước vọng của chính mình, Ðại Ca Diếp nói:

- Thế thì hai ta đã có cùng chung một ước nguyện, cùng nhìn chung về một hướng. Tôi vẫn không thiết tha với việc lập gia đình, nhưng vì là con một, tạm để cho cha mẹ khỏi buồn, tôi phải tạm theo ý của gia đình mà thôi. Giờ đây chúng ta hãy tiếp tục nuôi mộng ước theo phạm hạnh và dù là vợ chồng, chúng ta quyết không bao giờ ngủ chung giường.

Mãi 12 năm sau, cả hai vẫn thanh tịnh, khi cha mẹ từ giã cõi đời xong xuôi, Ðại Ca Diếp rời gia đình đi tìm thầy học đạo, trước khi tạm biệt, Ðại Ca Diếp có hứa sẽ trở về hướng dẫn Diệu Hiền xuất gia, khi tìm được minh sư.

II- ÐẠO NGHIỆP CỦA ÐẠI CA DIẾP

1. Ðại Ca Diếp xuất gia trì hạnh Ðầu Ðà

Năm 30 tuổi, Ðại Ca Diếp từ giã thân thuộc vào rừng tìm đạo, chính là lúc Phật thành đạo dưới gốc cây Bồ Ðề.

Mãi đến hai năm sau, Ðại Ca Diếp vẫn chưa có đạo sĩ nào giúp thỏa mãn nguyện vọng. Nhân cuộc khởi xướng dâng y rầm rộ của ngự y Kỳ Bà. Ðại Ca

Diếp biết Phật và tìm đến thành Vương Xá, ngày ngày Ðại Ca Diếp theo Thánh chúng đến nghe pháp mà chưa chính thức ra mắt với Phật, vì lòng còn muốn dò xét.

Từ trên tòa giảng, Ðức Phật nhìn xuống thấy và biết Ðại Ca Diếp là người có thể kế thừa đạo nghiệp của Như Lai.

Tại hội Linh Sơn, khi Ðức Phật đưa lên một hoa sen, Ngài Ðại Ca Diếp mỉm cười. Phật biết chánh pháp đã có người tâm đắc, kế thừa sau này. Một hôm, sau khi mãn buổi thuyết pháp Phật đi đường tắt, đón Ðại Ca Diếp ở một ngã đường.

Trên đường về, Ðại Ca Diếp gặp Phật, biết là cơ duyên đã đến, Ðại Ca Diếp chính thức bái yết Phật, xin được xuất gia tiếp tục học đạo. Qua cuộc gặp gỡ, Ðại Ca Diếp theo Phật trở lại Tịnh xá Trúc Lâm. Ở đây, Phật đem phép Tứ Ðế, 12 nhân duyên, khai thị cho Ðại Ca Diếp. Vốn thích tu pháp Ðầu Ðà, sau khi gặp Phật. Ca Diếp vẫn tiếp tục thực hành pháp tu phạm hạnh. Hạnh đầu đà có năng lực tịnh hóa tâm hồn, khi tu theo hạnh này, cần giữ đủ 10 điều.

1 - Chọn ở nơi hoang vắng.
2 - Sinh hoạt bằng phép trì bình.
3 - Thường ở tại một nơi.
4 - Ngày ăn một bữa.
5 - Khất thực không phân biệt giàu nghèo.
6 - Tài sản gồm có 3 y, một bình bát.
7 - Tư duy dưới gốc cây.
8 - Thường ngồi giữa đồng trống.
9 - Mặc áo phấn tảo.
10 - Sống tại các bãi tha ma.

Với 10 điều kiện trên, Ðại Ca Diếp tuân giữ trọn vẹn chỉ có 9 điều. Riêng điều khất thực số 5, Ðại Ca Diếp không theo giáo đoàn đi khất thực không phân biệt nhà giàu, nghèo. Khi đi khất thực, Ðại Ca Diếp chỉ đến khất thực trước nhà người nghèo. Theo Ðại Ca Diếp, người giàu đã thừa phước đức, ta không cần phải mang phước đến cho họ, còn người nghèo vì thiếu mất phước đức, ta cần đem phước điền cho họ gieo trồng. Trong hàng đệ tử Phật, người đi khất thực ngược với Ca Diếp là ngài Phú Lâu Na, chỉ đi khất thực nhà giàu. Ngài Phú Lâu Na quan niệm rằng người giàu dể dàng cúng dường, nhưng người nghèo không có tài sản để cúng nên ngài không muốn làm phiền họ.

Nghe chỉ khất thực nhà nghèo, Phật thường khiển trách Ðại Ca Diếp và khuyên nên đem tâm bình đẳng khất thực, vì bỏ tâm phân biệt. Với Ðại Ca Diếp, Phật còn khuyên không nên sống quá khổ hạnh. Vì khổ hạnh làù một cực đoan, Phật đã bỏ sau khi bị kiệt sức ở xứ Ba La Nại, tu với 5 anh em ông Kiều Trần Như. Hành giả cần theo con đường Trung đạo, mới đạt được quân bình và đạt được địa vị giác ngộ, giải thoát. Với phép khất thực bình đẳng có lúc Ðại Ca Diếp vẫn tuân hành. Riêng Hạnh Ðầu Ðà, Ðại Ca Diếp khư khư giữ chặt cho đến hơi thở cuối cùng, không ai lay chuyển được. Từ đó Ðại Ca Diếp được tôn xưng là bậc Ðầu Ðà đệ nhất. Với tầm vóc ảnh hưởng của Ðại Ca Diếp rất lớn, lấn lướt hết ảnh hưởng của người khác, như ánh sáng chói chang của mặt trời khỏa hết các ánh sáng khác, vì thế Ngài Ðại Ca Diếp được dịch là Ẩm Quang.

2. Tiếp độ Diệu Hiền

Khi Ðức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ, giáo hóa cho các vương tôn công tử. Ðại Ca Diếp có đi theo, để hợp giáo phép bình đẳng, và cũng theo lời thỉnh cầu của Ngài A Nan, Phật cho bà Ma Ha Ma Xà Ba Ðề xuất gia với hiệu là Kiều Ðàm Di, vị nữ đầu tiên trong giáo đoàn của Phật. Thấy di mẫu của Phật được xuất gia, Ðại Ca Diếp có ý mừng, vì Phật mở lối để Ðại Ca Diếp thực hiện lời ước hẹn với Diệu Hiền lúc từ tạ gia đình để đi xuất gia.

Chờ đợi 3, 4 năm không thấy Ðại Ca Diếp trở về, Diêu Hiền cho phân tán tài sản, bố thí, giúp đỡ bà con và những người gặp khó khăn về kinh tế, rồi đi xuất gia theo phái ngoại đạo lõa hình ở bên bờ sông Hằng.

Ðược tin Diệu Hiền đi tu, nhưng vì sắc đẹp mà phải chịu nhiều sĩ nhục, Ðại Ca Diếp nhờ một Tỳ Kheo ni đi đón nàng. Khi về đến Ni Viện cũng vì có sắc đẹp kiều diễm mỹ lệ, Diệu Hiền vẫn không tránh khỏi xì xầm nơi đông người. Tự thấy thân nữ trở ngại đạo nghiệp rất nhiều, Diệu Hiền không đi ra ngoài khất thực nữa, không tiếp xúc với đại chúng, tránh chỗ đông đảo.

Cảm kích tình cảnh của Tỳ Kheo ni Diệu Hiền hàng ngày Ðại Ca Diếp chia nửa phần cơm và nhờ người mang đến Ni Viện cho Diệu Hiền. Ðời lại lắm chuyện, Tỳ Kheo ni Thâu La Nan Ðà, người có tình tò mò lại hay thị phi, sinh tâm tật đố và cho là giữa hai người chắc còn tình ý. Ðể tránh tiếng đàm tiếu, Ðại Ca Diếp không chia phần cơm cho Diệu Hiền như bấy lâu nữa. Tỳ Kheo ni Diệu Hiền cũng muốn chóng được nhẹ nghiệp nữ lưu, suốt đêm không ngủ, tỉnh tọa sám hối, tấn tu đạo nghiệp và sớm đạt được Túc mạng thông, được Phật khen ngợi.

Tôn giả Ðại Ca Diếp rất hoan hỉ, với hai mặt Ðời và Ðạo, Ðại Ca Diếp đều thực hiện viên mãn, hết mối bận tâm.

3. Ðộ bà lão nghèo

Với chí nguyện, đem phước điền đến cho người nghèo thiếu khi đi khất thực, Ðại Ca Diếp tránh nhà giàu có, dừng bước trước cửa những ngôi nhà nghèo nàn, lụp xụp, có vẻ đói nghèo. Một hôm vào thành Vương Xá khất thực, thấy một bà già ăn mày đau ốm nằm rên rỉ bên vệ đường, Ðại Ca Diếp đến gần và hỏi rằng:

- Này bà già! Tại sao trong lúc đau ốm bà lại nằm giữa đất, và chỉ lấy lá che thân? Nơi đất, hơi gió mưa sẽ làm cho bệnh của bà nặng thêm. Bà không có nhà cửa, con cháu gì cả sao?

- Nếu đã có các thứ như ông vừa hỏi, tôi đâu có nằm rên rỉ ở đây. Bà già nói. Ông có gì cho tôi không? Trong khi tôi nghèo rớt mồng tơi, sao tôi cảm thấy ông có vẻ vô sản và cũng mang bát đi xin ăn hả? Tôi chẳng có gì cho ông cả. Thế ông có phép gì giúp tôi hết bệnh và hết nghèo đói chăng?

Tôi là một tỳ kheo đang theo học đạo lý với Phật Thích Ca và đang tu khổ hạnh để giải thoát cảnh sinh, già, bệnh, chết. Tôi cũng đi xin như bà, nhưng lại đi bán giàu mua nghèo, bà hãy bán nghèo cho tôi để tạo nhiều phước báu giàu sang phú quý.

- Nghèo thì lấy gì để bán? Bà nói, đã ba ngày qua tôi không có bất cứ chút gì để bỏ vào bụng, sáng sớm hôm nay có người đi đổ nước cơm, tôi hứng được 1 tý đỉnh, nhưng nước đã có mùi, chưa dám uống, sợ tháo dạ.

- Thế, bà đem nước đó bố thí cho tôi chút đỉnh, gọi là gieo trồng phước đức, hy vọng tương lai gặp may mắn, trở nên giàu có. Ðại Ca Diếp nói. Tôi tuy đã cao niên, nhưng còn khỏe mạnh, nước đó không thể làm cho tôi đau bụng được đâu.

Nghe Ðại Ca Diếp giảng giải, tâm bà đầy hỷ lạc quên cả sự ô uế của thân hình, bà đem mẻ nước cơm có mùi dâng cúng cho Ðại Ca Diếp.

Tôn giả hoan hỷ tiếp nhận. Ðể bà khỏi nghi ngờ, Ðại Ca Diếp uống gần cạn mẻ nước cơm.

Thấy thế, bà già vô cùng vui sướng. Tự cảm nhận đã giúp bà già ăn mày gieo trồng phước đức, tôn giả Ðại Ca Diếp ngỏ lời phú chúc bà già, rồi tiếp tục lên đường hành hóa.

4. A Nan tặng Bát

Trong giáo đoàn của Phật, tôn giả Ðại Ca Diếp giữ phạm hạnh bao nhiêu, thì nhóm lục quần Tỳ Kheo lại thường sai trái mất phạm hạnh bấy nhiêu.

Có một thời kỳ Phật ở Kỳ Viên Tịnh xá, lục quần Tỳ Kheo thi nhau sưu tầm bình bát. Phật chế bát có hai loại, bát bằng sắt thép và bát bằng sành sứ. Nhưng khi sản xuất hình dáng bát, mỗi thứ không giống nhau, chất liệu cũng có thứ tốt, thứ xấu, màu sắc cũng có nhiều. Nước Tô Ma sản xuất bát thiếc, nước Ưu già sản xuất bát màu đỏ, nước Ô già sản xuất bát màu đen... lục quần Tỳ Kheo chẳng lo hành thiền, tu tập, ngày này qua ngày khác lo đi tìm kiếm bát tốt, đem về trưng bày, để ngắm nhìn. Phòng xá của các vị giống như nhà hàng bán đồ gốm, sành sứ.

Biết đư?c tình trạng lục quần tích trữ nhiều bát, Phật định ban hành luật: Tỳ Kheo chứa bát dư phạm Ni bát kỳ ba dật đề.

Trong lúc đó A Nan được đàn việt cúng dường 4 cái bát của nước Tô Ma rất quý. A Nan định đem bát đó dâng cúng cho Tôn giả Ðại Ca Diếp. Nhưng lúc bấy giờ Ðại Ca Diếp không có mặt ở nước Xá Vệ, đang đi du hóa ở phương xa, giữ bát thừa tất phạm giới, không biết xử lý bằng cách nào, tôn giả A Nan đành đem sự việc trình lên Ðức Phật. Phật hỏi:

- Bao giờ Ðại Ca Diếp mới trở về?

A Nan thưa:

- Bạch Thế Tôn! Khoảng sau 10 ngày.

Trong giờ giảng pháp trước đại chúng, Phật hết lời khen ngợi phạm hạnh của Ðại Ca Diếp, và khuyên đại chúng nên noi gương, đặc biệt là Lục quần Tỳ Kheo. Sau cùng, thể theo sự tình của A Nan đã trình bày, với phép cất bát dư, Phật sửa lại điều luật và công bố:

- Các Tỳ Kheo được cất bát dư trong thời gian 10 ngày.

Qua sự kiện Phật chế giới luật Tỳ Kheo giữ bát dư, chúng ta biết được địa vị và ảnh hưởng của tôn giả Ðại Ca Diếp đối với Ðức Phật và giáo đoàn rất cao.

5. Thừa kế Ðức Phật

Thấy Ðại Ca Diếp đạo cao đức trọng, Phật và giáo đoàn đều vị nể, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên yêu cầu tôn giả tham gia việc hoằng pháp, tôn giả không tham dự, vì việc đi bố giáo đã có các vị thông minh tài trí, như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên, Tôn giả chỉ chú trọng đến cuộc sống phạm hạnh, thiểu dục, trí túc, vì đó cũng là cách gián tiếp truyền bá đạo lý của Ðức Phật. Tôn giả trọn giữ Hạnh Ðầu Ðà, lúc nào Tôn giả cũng ở trong rừng già, kinh hành hoặc tọa thiền gốc cây, quán xương trắng, ở bãi tha ma, chẳng quản nắng mưa, sương gió...

Mãi đến lúc tuổi già tóc râu bạc phơ, thân thể gầy guộc tôn giả vẫn không giờ phúc chểnh mảng sinh hoạt đầu đà. Thấy thế, không đành lòng Phật yêu cầu tôn giả về thường trú tại Tịnh Xá Kỳ Viên, nhưng tôn giả vẫn không chịu. Dù biết rằng cung kính không bằng phụng mạng, nhưng tôn giả thấy sống với tập thể thì phải theo khuôn khổ chung và đành phải ngưng thực hành Hạnh Ðầu Ðà. Hơn nữa, ở chốn rừng sâu, không phiền hà gì đến ai, khi cần gieo phước điền cho người thì vào thành khất thực, khi mệt mỏi không đi được thì kiếm hoa quả rau trái ở rừng, thọ dụng qua ngày.

Thực hành phạm hạnh đầu đà đã là trực tiếp củng cố giáo đoàn, gián tiếp lợi lạc chúng sanh. Củng cố tăng đoàn là điền kiện thừa kế Ðức Phật, Ðại Ca Diếp xin Phật được tiếp tục con đường đã chọn.

Biết không thể lay chuyển được ý hướng của Ðại Ca Diếp, Phật hướng về Ðại chúng dạy rằng:

- Này các Tỳ Kheo! Ðại Ca Diếp luôn luôn lo ngại cho tiền đồ chánh pháp, Thiên ma ngoại đạo hay thế lực cường quyền không thể phá hoại chánh pháp. Nội tình lộn xộn, Tăng đoàn hủ hóa, thiếu phạm hạnh là điều kiện chánh làm cho chánh pháp tiêu diệt. "Trùng trong sư tử ăn thịt sư tử". Vì thế, nếu tăng đoàn được củng cố, giới đức trang nghiêm, nội tình ổn định hòa hợp tất yếu chánh pháp được trường tồn. Ðể củng cố tăng đoàn, sinh hoạt phải nghiêm túc, giới luật phải được tôn trọng giữ gìn, giới luật còn thì đạo ta còn. Người có thể chủ trì thừa kế chánh pháp nhãn tạng của ta phải là Ma Ha Ca Diếp. Ðiều đó, ta đã thấy rõ ngay ở hội Linh Sơn, khi ta đưa lên một cành hoa sen, Ma Ha Ca Diếp liền mỉm cười, trong khi mọi người chỉ biết ngồi nín lặng.

6. Kiết tập kinh điển

Ðúng là người thừa kế mạng mạch của Như Lai, sau khi Phật Niết Bàn 7 ngày, suốt 3 tháng, tôn giả Ðại Ca Diếp liền triệu tập hội nghị kiết tập kinh điển, Tịnh Xá của giáo đoàn rộng rãi có rất nhiều, nhưng đa phần chưa phải là nơi hoàn toàn thanh tịnh. Các Tỳ Kheo lân cận đa phần chưa phải thật sự ly dục, chứng thánh quả. Suy xét kỹ lưỡng, Ðại Ca Diếp chỉ thấy có động Kỳ Xà Quật mới xứng đáng là nơi kiết tập kinh điển. Ðó là nơi u tịch, rộng rãi, cảnh trí thoát trần, Ðại Ca Diếp hướng dẫn đến động này 500 đệ tử của Phật. Trong số, hầu hết đều chứng thánh quả A La Hán, riêng A Nan luôn luôn gần Phật lại đa văn, thuộc tất cả các lời Phật dạy, nhưng lại chưa chứng thánh quả, lại còn có 6 tội. Ðể có thể và duy trì chánh pháp lâu dài, sư sinh hoạt của giáo đoàn phải oai nghiêm, không thể có người còn lỗi lầm. Ở trong đại chúng, với oai đức sẵn có, tôn giả Ðại Ca Diếp buộc A Nan phải sám hối 6 tội trước giáo đoàn.

Còn vấn đề chưa chứng thánh quả, Ðại Ca Diếp buộc A Nan phải ra ngoài động, kiếm nơi an tĩnh tu tập, lúc nào chứng thánh quả A La Hán hãy trở vào. Nhờ nhất tâm, chỉ tĩnh tu trong thời gian ngắn, A Nan liền chứng A La Hán.

Khi A Nan trở vào thạch động, cuộc kiết tập kinh điển cũng mới chính thức bắt đầu.

Ðại chúng nhất trí đề cử Ðại Ca Diếp làm chủ tọa.

- Ưu Ba Ly đọc luật.

- A Nan đọc kinh.

- Phú Lâu Na luận nghị.

- Ngoại hộ đắc lực cho cuộc kiết tập kinh điển lần thứ nhất là vua A Xà Thế.

III- ÐẠI CA DIẾP NIẾT BÀN

Trong hàng đệ tử của Ðức Phật, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên Niết Bàn trước Phật. Niết bàn sau Phật có Ðại Ca Diếp.

Tương truyền, sau cuộc kiến tập kinh điển tại động Kỳ Xà quật, khoảng hai hoặc ba mươi năm sau, cảm thấy cơ thể già yếu, mệt mỏi, vì đã trên 100 tuổi, Ðại Ca Diếp quyết định Niết Bàn,

Tôn giả tìm đến nơi A Nan đang du hóa để phú chúc pháp tạng, yêu cầu A Nan tiếp nối sứ mạng thừa kế truyền bá chánh pháp. Rồi không nề mệt mỏi, tôn giả đến 8 tháp thờ Xá Lợi Phật và cung kính lễ bái cúng dường.

Sau đó, trở về thành Vương Xá, tôn giả đến tạ từ vua A Xà Thế, nhưng gặp lúc nhà vua đang ngủ nghỉ, quân hầu không cho tôn giả vào cung. Rời thành vương Xá, tôn giả mang theo y bát của Phật đến núi Kê Túc, ngồi nhập định và Niết Bàn. Nơi này cách thành Vương Xá khoảng 8 dặm, ở phía Tây Nam. Nghe tin tôn giả Ðại Ca Diếp đã Niết Bàn. Vua A Xà Thế rất bi thương! Nhà vua lập tức đến thông báo cho A Nan và yêu cầu cùng nhà vua đến núi Kê Túc đảnh lễ cúng dường.

Mặc dù Tôn giả Ðại Ca Diếp đã Niết Bàn, nhưng ảnh hưởng đạo đức, nếp sống phạm hạnh của tôn giả vẫn còn tồn tại mãi với thời gian vô cùng và không gian vô tận...

IV- NHẬN THỨC VÀ KẾT LUẬN

Với những phép khất thực, Phật dạy phải bình đẳng không thiên chấp, phân biệt. Nhưng tôn giả Ca Diếp lại chỉ khất thực nhà nghèo, trong khi Phú Lâu Na chỉ khất thực nhà giàu. Vì thế, cả hai đều bị Phật khiển trách. Tuy thế, theo Ðại Ca Diếp với thực tế người nghèo là kẻ đáng thương, đáng lân mẫn để an ủi họ. Từ quan niệm đó, bất luận một hành vi, cử chỉ lớn hoặc nhỏ nào của tôn giả Ðại Ca Diếp đều biểu thị đức từ bi bao la vô hạn. Bởi thế, tăng hay tục, mọi người đều kính nể tôn giả Ðại Ca Diếp. Hào quang hiền dịu của tôn giả đã lấn lướt ảnh hưởng của người khác. Do đó, tên Ðại Ca Diếp được Trung Quốc dịch là "ẩm quang" (uống ánh sáng).

Trong hàng đệ tử Phật có nhiều vị mang tên Ca Diếp, vì thế, để phân biệt với các vị khác, giáo đoàn của Phật gọi tôn giả Ca Diếp tu hạnh đầu đà là Ma Ha Ca Diếp (tức Ðại Ca Diếp).

* Theo Phật giáo Bắc Tông sau khi Phật Niết Bàn, Ðại Ca Diếp được tôn vinh làm sư tổ, trong khi Phật giáo Nam Tông tôn vinh Ưu Ba Ly làm sư tổ. Theo thiển ý của chúng tôi vì quan điểm của hai phái có thiên trọng khác nhau, nên sự suy tôn sư tổ đương nhiên là khác. Ðó cũng chính là một trong những điểm mà Phật giáo có chia Nam Bắc hai phái. Phật giáo Bắc tông thiên về thiền, về giáo ngoại biệt truyền, không lập văn tự, chỉ dùng tâm ấn tâm, cho nên qua biểu thị Phật đưa hoa sen, Ðại Ca Diếp liền mỉm cười (chính ngộ yếu chỉ niêm hoa vi tiếu), vì thế Ðại Ca Diếp được suy tôn là sư tổ. Trong khóa chúc tán có bài tán đã nói lên ý nghĩa đó như sau:

- Niêm hoa ngộ chỉ, tổ đạo sơ hưng, miên diên tứ thất diễn chơn thừa, lục đại viễn truyền đăng, dịch diệp tương thừa chánh pháp vinh xương minh.

(Thấy hoa liền ngộ, vị tổ đầu tiên, liên tục bốn bảy giảng chơn thừa, đèn soi suốt 6 đời, cây lá nối nhau, chính pháp mãi thịnh hành).

Phật giáo Nam tông chủ yếu vẫn tọa thiền, loại trừ phiền não triền cái, nhưng lại nhắm hướng giải thoát cá nhân làm trọng điểm... Muốn giải thoát tất yếu phải giữ giới luật, chính chữ giới luật có nghĩa là biệt giải thoát. Phật tìm đạo vì để giải thoát sanh tử luân hồi cho chúng sanh. Lúc Phật sắp Niết Bàn, A Nan hỏi Phật:

- Sau khi Thế Tôn Niết Bàn chúng con biết lấy ai làm thầy. Phật bảo: "Lấy giới luật làm thầy, giới luật còn thì đạo ta còn". Ưu Ba Ly là vị trì luật đệ nhất,với mục đích duy trì mạng mạch của Ðức Phật lâu dài, đồng thời cũng tiến tới chân trời giải thoát, đương nhiên Phật giáo Nam tông phải suy tôn Ưu Ba Ly làm sư tổ.

* Nhìn chung, suốt cả cuộc đời tôn giả Ðại Ca Diếp luôn luôn hướng dẫn phẩm hạnh đạo đức thiểu dục, tri túc là chính. Cuộc sống nội tâm thúc ép hành vi, cử chỉ, lời ăn tiếng nói vào một lề lối không cho chệch lề. Bởi thế, người khác nhìn vào có vẻ thấy tiêu cực, thụ động, yếu đuối... Nhưng ở đời có mấy ai ép mình được trong khuôn khổ đạo đức, lo trau dồi phẩm hạnh. Theo chúng tôi nghĩ, đó là tiêu cực mà tích cực. Cái lăng xăng, tích cực tham dự và sự thu hút của xã hội, của cuộc đời có thể dễ dàng thực hiện. Có cái tích cực diệt trừ cái thói hư, tật xấu, tham, sân, si, chấp, ngã, tiềm ẩn trong mỗi tự thân của con người thật khó thực hiện.

* Thắng người thì dễ, thắng mình rất khó. Tôn giả Ðại Ca Diếp luôn luôn hướng về tự thắng. Nhờ đó, tôn giả trở thành một con người gương mẫu trong giáo đoàn. Phẩm hạnh của tôn giả đã có một tầm mức ảnh hưởng rất rộng. Ðức Phật cũng đã vị nể, xem tôn giả như bạn, có lần Phật đã nhường nửa tòa ngồi giảng pháp cho tôn giả. Dù tôn giả không ngồi, vì dù bình đẳng đến đâu cũng phải có sự tôn ti trật tự. Phật phải trên tất cả giáo đoàn. Nhờ phẩm hạnh đầu đà, sau khi Phật Niết Bàn, tôn giả Ðại Ca Diếp đã được giáo đoàn suy tôn lên ngôi thủ lãnh, trong cuộc kiết tập kinh điển lần đầu tiên tại Kỳ Xà Quật.

* Ngày nay, để duy trì đạo Pháp, lợi lạc mỗi người, chúng ta nhất là hàng Tăng sĩ hãy noi gương tôn giả Ðại Ca Diếp, để nâng cao phẩm hạnh đạo đức ở đời. Người có tư cách đạo đức bao giờ cũng được kính nể. Ngược lại, không tư cách, đạo đức, dù mạnh đến mức nào, cuối cùng cũng bị cuộc đời, con người dẹp bỏ.

* * *

CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Quê quán, dòng họ và danh hiệu Ðại Ca Diếp như thế nào?

2. Mục đích của hạnh đầu đà là gì?

3. Muốn theo hạnh đầu đà chúng ta cần tuân giữ những điều kiện gì?

4. Lai lịch xuất gia của Ðại Ca Diếp như thế nào?

5. Khi vào thành Vương Xá khất thực, Ðại Ca Diếp đã gặp ai và làm gì?

6. Lý do và trường hợp nào Phật đã chế giới Tỳ Kheo được giữ bát dư thừa, thời gian 10 ngày?

7. Nhờ đâu, Ðại Ca Diếp được thừa kế Ðức Phật?

8. Diễn tiến của cuộc tập kinh điển lần thứ nhất như thế nào?

9. Truyền thuyết khi Ðại Ca Diếp Niết Bàn như thế nào?

10. Trên đường tu tập, hành giả chỉ lo trau dồi phẩm hạnh đạo đức phải chăng là một việc làm tiêu cực?

-ooOoo-

Ðầu trang | 1.01 | 1.02 | 1.03 | 1.04 | 1.05 | 1.06 | 1.07 | 1.08 |
| 2.01 | 2.02 | 2.03 | 2.04 | 2.05 | 2.06 | 2.07 | 2.08 | 2.09 | 2.10 | 3 | Mục lục

Chân thành cám ơn Đại đức Giác Đồng đã gửi tặng phiên bản điện tử (Bình Anson, 07-2001)


[Trở về trang Thư Mục]