Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

VU Times font

 

TÌM HIỂU PHÁP THẦN THÔNG TRONG PHẬT GIÁO

Nguyên tác: Supra-Mundane, Psychic Powers
Tác giả: Phorn Ratanasuwan
Dịch giả: Tỳ khưu Thiện Minh

Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)


[02]

HÓA TÂM THÔNG (Manomayiddhi)

Theo nguồn tham khảo Kinh Phật giống như các chương trên, có ghi lại giai thoại Đức Phật hướng dẫn nhà vua Ājātasattu (đã phạm tội giết cha mình) về những kết quả to lớn một người sống đời độc thân ly tục hy vọng đạt được như sau:

“Một vị tỳ khưu nhập thiền định (samadhi), do vậy tuệ giác ngài được thanh tịnh và sinh động, ngài đã gạt bỏ hết những ảnh hưởng phiền não, tuệ giác tỳ khưu trở nên ổn định, linh hoạt, không gì lay chuyển nổi, chỉ một mực hướng tới tạo ra Ý Sinh Thân từ thân xác thô thiển này. Sắc (rūpa) đã tạo thành thân xác đó cùng với tuệ giác, cũng gồm đầy đủ các chi và căn khác, hoàn hảo với những môn (mắt, tai, mũi. lưỡi, thân và tâm); ôi Hoàng Thượng Vĩ Đại. Người đó giống hệt như kẻ được kéo ra từ đám bùn lầy lau sậy “

Đoạn trích trên chính là Đức Phật, một nguyên lý cơ bản nhờ đó ta hiểu được chân lý liên quan đến các chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) và Ý Sinh Thân của các chúng sanh đó hay cái được gọi là “các Thiên Thể”. Từ ‘Dibbakāya’ nghĩa đen được hiểu là Thiên Thể (thân xác mang tính thiên đường) là một từ chung chỉ những thành tố thuộc các chúng sanh Hóa Sinh. Gồm cả những chúng sanh trong cõi khổ như Ngạ quỷ, Atula và những chúng sanh thuộc cõi ma quái. Cũng như các sinh vật khác trong cõi sướng được gọi chung là các vị thần hay là các chư thiên . Chính vì thế từ có một ý nghĩa rất rộng dùng để ám chỉ các chúng sanh không giống con người kể cả các chúng sanh siêu nhân nữa.

Hiểu được một cách tường tận chân lý về các thành tố Ý Sinh Thân – tức lý do tại sao lại tồn tại các chúng sanh này và bằng cách nào chúng xuất hiện, chắc chắn sẽ giúp làm gia tăng niềm tin vào những kết quả nghiệp chướng và cuối cùng ta có được một niềm tin không lay chuyển về chiều kích cuộc sống được gọi cách chung là nhàn cảnh (diệu hỷ quốc) và khổ cảnh. Một phó phẩm phát sinh từ hiểu biết đúng đắn này là một niềm tin vô tư về những thành tựu Đức Phật có được trong lãnh vực các phép thần thông ngài có được như : việc Nhớ Lại Tiền Kiếp của chính ngài cũng như tiền kiếp của nhiều người khác nữa. Hơn thế nữa am hiểu tường tận được những chân lý về hóa tâm thông (Mind-made-body) sẽ đem lại kết quả thể hiện được nơi hiểu biết tương xứng về chân lý cho rằng thân xác con người ta do thức hoặc tâm. Điều này được thấy rõ khi Đức Phật đàm đạo với Trưởng lão Ānanda về Kinh Mahānidāna, đề cập đến trong Đại Phẩm (Mahāvagga), một đoạn trích trong Trường Bộ Kinh (10/74) như sau:

“Ôi Ānnada, nếu như thức không thể lọt vào trong lòng mẹ, liệu Danh và Sắc có thể được sinh ra trong đó hay không?”

“Thưa Đức Thế Tôn, điều này không thể được,” Trưởng lão Ānanda trả lời.

Chính vì thế Đức Phật nói tiếp. “Đây chính là trường hợp. Ôi ngài Ānanda, bất kỳ nơi nào xuất hiện thức đều xuất hiện Danh và Sắc.”

Sự Mù Quáng Siêu Nhiên

Theo quan điểm Phật giáo, chẳng phải quá đáng cho rằng những ai không tự thể hiện (khẳng định) được chính mình đầy đủ chân lý vừa đề cập ở trên nói về Đức Phật đều thực sự trở nên mù quáng siêu nhiên và như vậy họ không thể hiểu được ý nghĩa sâu rộng các ân đức nơi Tam Bảo. Đối với tuyệt đại đa số con người ta, “mù quáng siêu nhiên” đã hạn chế tầm nhìn của họ, một hiện tượng trên bình diện vật chất thô thiển này lại là một điều tốt nhất nhưng chỉ là một phần và vì thế không hoàn hảo. đây chỉ là một thực chất sinh lý thuộc về di truyền hay, chính xác hơn, xuất hiện chung với cha mẹ, và là một kết quả, một sản phẩm của tạo hóa. Hiểu theo bất kỳ kiểu nào rất ít người dám tháo bỏ sự “mù quáng” đó để có thể nhìn thấy được những sự thật về những lãnh vực khác trong cuộc sống. Cũng chính vì không thông suốt chân lý vĩ đại này đa số đã có khuynh hướng không quan tâm gì đến qui luật nghiệp chướng, hay nói theo kiểu hiện nay là hành động hay phản ứng lại cõi siêu nhiên này. Coi nhẹ qui luật đầy ý nghĩa đang chi phối cuộc sống. Họ đã bị thu hút vào việc nuông chiều giác quan, và đã bị tính đam mê lạc thú lấn át và quên mất là trong cuộc sống của họ đâu chỉ có những gì ta quan sát được bằng mắt trần (hay thực tế là còn có nhiều điều khác hơn là các giác quan thô thiển của thân xác ta).

Sự so sánh của Đức Phật thật đáng quan tâm. Người nói rằng nếu (thân xác siêu nhiên) một khi lìa khỏi bản sao vật lý của nó cũng coi như là một con người được kéo ra khỏi vũng bùn lầy lau sậy và trở thành một cây sậy linh thiêng. Theo Trưởng lão Buddhaghosacariya, tác giả cuốn Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) điều này được giải thích là mục tiêu của Đức Phật. Ở đây chính là ngài muốn truyền đạt ý nghĩa cho rằng một thân xác do tâm tác tạo như thế dưới mọi khía cạnh giống y hết như thân xác của một người đã đạt đến được những khả năng siêu phàm. Một hình ảnh tương đương ta có thể nhìn thấy trong trường hợp một người đang lìa khỏi cõi đời này các căn môn của họ không thể phản ứng lại với bất kỳ một kích thích nào thuộc cõi đời này được nữa. Nếu như một người đã đạt được một mức độ thiền thích đáng, một thân xác khác nữa sẽ hiện ra ngay trước mắt họ (họ có thể nhìn thấy một thân khác nữa y hệt như thân xác đang nằm bất động đó) có nghĩa là một thân xác tinh tế hơn, một Ý Sinh Thân dưới mọi góc độ đồng nhất với thân xác đang nằm bất động trên giường. Ngay cả trang phục của Ý Sinh Thân đó cũng giống hệt như thân xác chết nằm đó.

Điều này có nghĩa là đối với một người đang trong cơn sinh thì, thân xác cõi trời của họ (nghĩa là thân xác do tâm tác thành hay là Ý Sinh Thân) trước tiên phải lìa khỏi thân xác trần tục này Nếu bằng bất cứ cách nào ta có thể thấy được Ý Sinh Thân đó, thoát ra khỏi thân xác trần tục của nó, thì lúc đó ta chắc chắn người đó đã lìa khỏi cõi đời vào giây phút đó, ta có thể nói chính xác đến từng giờ từng phút. Tuy nhiên, những phương thế khiến ta thực hiện được điều đó chỉ có thể có được thông qua sức mạnh thiền. Một người tự trang bị cho chính mình khả năng có thể nhìn thấy bằng con mắt siêu nhiên của mình một cách chính xác lúc nào Ý Sinh Thân của người đang chết đó rời khỏi thân xác thế tục của họ. Người đó có thể làm được điều này mà không cần dùng tới con mắt thật của mình gì cả. Có nghĩa là không cần nhìn vào con người đang chết đó. Biểu tượng sự chết thật quá rõ ràng không còn nghi ngờ gì nữa. Như vậy sau khi nhìn thấy Ý Sinh Thân đó lìa khỏi con người. Người đó nổi lên từ hành thiền và cho biết chính xác đến tận phút khi nào thì cái thân xác đó đã chết.

Nếu vào này có ai đó đã đạt được những khả năng Thần Túc Thông dứới mọi góc độ và người đó có thể đứng ra đương đầu với những thách thức trước mọi nghi ngờ và mọi chứng cứ hoài nghi xác thực, thái độ của những người đó xét dưới góc độ của tôn giáo nói trên và do đó là hoài nghi chính các tôn giáo khác nữa, sẽ có thể thay đổi một cách cơ bản và còn thay đổi đến tận gốc rễ để trở nên tốt hơn. Một điều hết sức ý nghĩa đó là bất kỳ điều gì, cho dù có thể nào đi chăng nữa, cho dù người đó có là một tỳ khưu, hay một tín đồ đạo hữu, nam hay nữ, già trẻ lớn bé. Vấn đề là chính thành tích đó phải được kiểm nghiệm và chấp nhận một cách khoa học. Hay ít nhất được tuyệt đại đa số những người trên thế giới đồng tình ủng hộ. Liệu đây có phải là một giấc mơ trở thành hiện thực, là thái độ của mọi người và phản ứng của họ về các hoàn cảnh đó sẽ mang tính xây dựng và đem lại nhiều ích lợi hơn vào lúc này hay không. Những vấn đề và khó khăn cho dù là kinh tế chính trị hay xuất phát từ nhận thức, chắc chắn sẽ được giải quyết một cách hiệu quả hơn và sẽ được giảm thiểu tới mức tối đa. Chính vì thế mà sự băng hoại, bóc lột và nhiều hình thức đạo đức xuống cấp từ bấy lâu nay đã làm xói mòn xã hội và các quốc gia hiện nay. Tuy nhiên việc chấp nhận chân lý vĩ đại, phổ quát và hiển nhiên này đã trở thành như là một hiện tượng giống như con người đặt chân lên mặt trăng vậy.

Một Giấc Mơ Trở Thành Hiện Thực Chăng

Liệu “giấc mơ” này có trở thành hiện thực nơi các giáo lý của các tôn giáo chăng, đặc biệt là nơi giáo lý Phật giáo, một tôn giáo đã đề cập đến các hiện tượng này một cách trực tiếp và dồi dào trong kinh Phật. Liệu giấc mơ này có trở thành một thôi thúc đầy ý nghĩa để thể hiện được một ý chí mạnh mẽ hơn nơi một bộ phận dân chúng, khiến họ cảm thấy hổ thẹn và sợ hãi khi làm điều không tốt, ngay cả khi không có người nào chứng kiến hay biết được các hành vi đó. Nhưng xin nhắc lại một lần nữa ước mơ này cần phải được giải thích một cách cặn kẽ trên cơ sở giáo lý của Đức Phật, để có thể được áp dụng hiệu quả vào cuộc sống đời thường và nơi các công việc của người đời. Bằng không, và đây là điều kiện vô cùng quan trọng, hiện tượng này chỉ là nhân duyên khích động lên một phản ứng mơ hồ thay vì một sự chấp nhận thông minh chân lý nghiệp chướng còn sót lại và có thể dẫn đến lạm dụng thay vì sử dụng được một cách thông minh, khả năng siêu vượt này. Đây là một ảnh hưởng vô cùng to lớn và có thể gây ra kết quả tai hại siêu nhiên, giống như thân thể nếu không được kiểm soát chặt chẽ và đặt dưới kỷ luật nghiêm ngặt, ảnh hưởng lôi cuốn của điều này sẽ vô cùng mãnh liệt một cách khác thường. Trừ khi được đặt dưới chế độ kỷ luật nghiêm minh và kiềm chế nghiêm khắc, rất có thể chúng sẽ tạo ra những hậu quả khủng khiếp, cho chính mình và cho nhiều người khác ở mức độ toàn cầu.

Đối với những người hoài nghi chân chính, các trích đoạn của Đức Phật về hậu quả cho rằng khi một tuệ giác được thanh tịnh và trở nên linh hoạt sẽ xuất hiện khả năng tạo ra được ý Sinh Thân tự nhiên đáng cần tới một suy tư cẩn thận, và kết quả là phải cần đến một số giải thích như sau:

Giấc Mộng Là Hiện Thực Khi Còn Đang Tiếp Diễn

Một người bình thường luôn mơ mộng khi ngủ. Một điều hết sức rõ ràng là những gì diễn ra trong giấc mơ - Bất kể điều gì thấy, nghe được v.v… đều do tâm tạo ra hay nói chính xác hơn tất cả xuất phát từ Tâm Hộ Kiếp (Bhavañga-citta) có nghĩa là xuất phát từ đáy tâm hữu phần hay là tận cõi lòng sâu thẳm. Như tất cả chúng ta đều biết, vẫn tồn tại một thân xác khác nữa, thực tế và bền vững cho đến khi nào giấc mơ vẫn còn tồn tại, không kể đến thân xác bất động và đang ngủ của ta. Thân xác thứ hai hay là “song hành” đó hoàn toàn đầy đủ các chi, và cơ quan, cộng với các giác quan có khả năng vận hành y hệt như thân xác của ta. Thân xác này có thể cảm thọ, suy nghĩ và cảm nhận được những cảm xúc. Nói tóm lại, thân xác đó hoàn toàn sống động như là thân xác tương đương của ta, cho dù cuộc sống của thân xác này so với thân xác đồng hành của nó, rõ ràng là có ngắn ngủi hơn. Nhưng sức mạnh những cảm nghiệm gặp phải trong những giây phút ngắn ngủi đó chẳng có ngắn ngủi hay hão huyền một chút nào. Ngược lại còn rất mạnh và đôi khi, đặc biệt trong trường hợp một đau khổ có cường độ mạnh, hình như còn tồn tại vĩnh viễn nữa là đàng khác.

Tuy nhiên, vì hầu hết các giấc mơ của chúng ta đều không mạch lạc và khó hiểu, phần lớn thời gian là sản phẩm do chính những triền cái thường tự đánh lừa chính mình, nên chúng ta thường có khuynh hướng đưa ra những kết luận khái quát và ngây thơ cho rằng các giấc mơ chỉ toàn là ảo giác và chẳng đưa ra được những ý định trước đây. Cho dù có một thực tế rõ ràng là một số giấc mơ đã thực sự được biết đến như là lời tiên đoán cho những sự kiện trong tương lai một cách chính xác. Nếu chúng ta xét đến những hiện tượng này với một thái độ không thiên vị và thực sự với một tâm hữu phần tìm hiểu nghiêm túc, ta sẽ thấy cả hai thái độ kết án một cách chung chung và một thái độ tin tưởng vô điều kiện những giấc mơ đều là những thái độ quá khích. Chắc chắn sẽ phải có một thái độ trung dung cần tìm hiểu và nghiên cứu với một cách tiếp cận phân tích và một tâm khoa học.

Có một điểm chung cho cả hai hạng người mơ mộng và ngưòi nhập thiền sâu xa. đó chính là sự thức tỉnh tâm như là điều gì đó đối kháng lại với tính vô ý thức của thân xác của chúng ta. Chính vì thế ta có thể khẳng định được thành một công thức như sau. Nếu khi tâm trở thành vô thức và được tách khỏi thân xác thô thiển của chúng ta, sẽ có một Ý Sinh Thân khác xuất hiện để bù vào chỗ thân xác của ta ngay tức khắc. Đây chính là thân xác do tâm tạo ra. (Ý Sinh Thân). Thân xác này xuất hiện trong giấc mơ hoặc vào lúc chúng ta nhập thiền bậc cao. Cảm giác bay bổng lâng lâng cùng xuất hiện trong lúc nhập thiền cũng chính là cảm giác của Ý Sinh Thân đó. Chỉ có điều khác là, trong giấc mơ người ta bị tước đoạt mất chánh niệm đã được kiểm soát. Trong những giây phút như vậy thì ước muốn bị khống chế, những tư tưởng mong muốn và những tưởng tượng tình cảm được phép tuôn trào một cách hoang dại. Kết quả là trong đa số những trường hợp như chúng ta đã thấy, chính vì thế mà “chất cặn bã”tâm cho đến giờ vẫn thường được lắng đọng trong hữu phần từ bấy lâu nay lại nổi lên và chơi khăm những người mơ mộng đó. Trong trường hợp một chủ thể là người nhập thiền nghiêm túc từ đó một Ý Sinh Thân được tái tạo ra, cũng xuất hiện một mức độ chánh niệm đủ để có mức độ tự kiềm chế cho dù điều đó vẫn chưa đủ để sử dụng quyền lực tuyệt đối trên Ý Sinh Thân vừa được tạo nên. Điều này không thể diễn ra được cho đến khi người đó đạt đến thiền bậc bốn. Thì sức mạnh kiềm chế này mới kiềm tỏa được Ý Sinh Thân một cách hoàn hảo vì theo Đức Phật chỉ ở mức độ chánh niệm này, thì thân xác mới được thanh tịnh đồng loạt với phẩm chất hành xả được (upekkhāsatipārisuddhiṃ)

“Vùng Sáng Đan Xen Nhau”

Khi chúng ta đạt đến bậc thiền tột đỉnh, thường thấy xuất hiện nhiều loại cảnh tượng tâm đa dạng. Ở đây, Ý Sinh Thân có thể được coi như là một “phôi thai”. Tâm đang đứng trước ngưỡng cửa tách biệt khỏi cái lồng xác thịt. Nó xuất hiện trong vùng “sáng đan xen nhau” giữa thức tỉnh và ngủ mê. Trong trường hợp chưa rơi vào giấc ngủ say, những hình ảnh tâm sẽ xuất hiện một cách rõ ràng hơn khi nhập thiền ngày càng thêm mãnh liệt và hậu quả tất yếu là một hiện trạng ngày càng mất ý thức về thân xác. Kể cả bất động và mệt mỏi, và cũng như nhĩ căn … nếu như hành thiền tiếp tục được phát triển cho đến khi đạt đến bậc một và kéo dài từ năm đến mười phút, thì chẳng còn cảm nhận được bất kỳ cảm giác nào thuộc thân xác nữa. Cùng lúc đó sẽ xuất hiện cảm giác của một thân xác khác tự động xuất hiện. Tuy nhiên, ngay cả ở bậc thiền này (thiền bậc một) thì Ý Sinh Thân được tạo ra và vẫn chưa được kiềm chế một cách tuyệt đối. Chỉ trong thiền bậc bốn thì sức mạnh này mới hy vọng được kiềm tỏa một cách hoàn toàn. Khi đó hình ảnh tâm xuất hiện một cách rõ ràng và sống động và cũng theo ý muốn của ta nữa có nghĩa là ngay tức khắc.

Một hiện tượng cũng đáng cho ta nghiên cứu thêm đó là có hiện tượng xảy ra trong rất nhiều trường hợp các ông đồng bà bóng (mediums) thường có khả năng nói những tiếng lạ mà họ chưa bao giờ có thể nói được trước đó, có nghĩa là trong lúc tỉnh táo và ý thức, điều quan trọng là những tiếng lạ đó đôi khi lại tiên đoán chính xác những sự kiện sắp xảy ra và không có trong mộng và có thể được chứng minh là lời nói hay lời tuyên bố chính thức của các nhân vật nổi tiếng đã chết. Điều này ít nhất cũng chứng minh được một điều là những người chết chẳng bao giờ biến mất luôn. Nhưng họ vẫn còn sống và khỏe khoắn ở đâu đó, trong một chiều kích nào đó mà chúng ta chưa khám phá ra. Theo giáo lý của Đức Phật, chúng ta biết họ đang ở dạng các chúng sanh vô hình mà đa số đều cho là các chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) một trong bốn cách tái sanh đã được Đức Phật mô tả trong Kinh Mahāsīhanāda, trong bộ Mūlapaññāsaka thuộc Trung Bộ Kinh. (Middle Lenghth Sayings)

“Tái sinh nơi cõi Hóa Sinh là gì?” Đó là những chúng sanh thần tiên. Những chúng sanh tái sanh trong địa ngục, một số con người (trong những giai đoạn tiên khởi của cõi đời này và một số loại ma quái (Vinipāta)”

Đức Phật gọi những chúng sanh này là Hóa Sinh (Opapātika) là vì thân xác và cuộc sống của họ hoàn toàn do tâm mà ra. Điều này lại được khẳng định chắc chắn một lần nữa trong Kinh poṭṭhapāda, trong tác phẩm Sīlakhandhavagga, thuộc Trường Bộ Kinh (Long Length Sayings đoạn 9/ 241)

Qua tâm thì Ngã (atta) thu được điều gì? Vì Sắc của Ngã (atta) do tâm tạo ra, trọn vẹn với các chi và đầy đủ các cơ quan hoàn hảo, và các giác quan hoạt động. Chính điều Ngã (atta) thu được đó lại do tâm tác thành nên.”

Chính những đoạn trích trên đây có thể so sánh với đoạn trích ngay ở trang đầu chương này. Để cho độc giả có thể tự đi kết luận lấy cho mình thuận lợi cho mình, tôi trích lại ngắn gọn đoạn trên dưới đây.

“Một vị tỳ khưu chủ tâm nhập thiền định . . .hướng tâm trí tới việc tạo ra một “Ý Sinh Thân” . . . với đầy đủ các chi và các cơ quan nội tạng, hoàn hảo với các môn. . .”

Chúng sanh Thuộc Hai Cõi

Từ những trích đoạn trên ta có thể đi đến kết luận là, ngoài việc chấp nhận rằng thực sự có việc các chúng sanh vô hình là có thật được gọi chung là chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) một vị tỳ khưu chủ tâm nhập thiền định tới bậc bốn có thể “tạo ra” một Ý Sinh Thân khác hoàn toàn do tâm tạo ra. giống hệt như một Chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika). Mặt khác, một con người như vậy với khả năng tạo được cái gọi là chúng sanh Ý Sinh Thân, nhờ thành tích đó người này có thể trở thành một chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) theo ý muốn bất kỳ lúc nào, không nhất thiết chỉ sau khi chết. Ta có thể nói, đây là một chúng sanh thuộc hai cõi, có khả năng di chuyển thức qua lại từ cõi thô thiển hữu hình này đến chiều kích tinh tế, vô hình thuộc cuộc sống Hóa Sinh (Opapātika). Điều này có thể thực hiện được tuỳ ý muốn và ngay tức khắc.

Để có thể nắm được khả năng này, hay đúng hơn là nắm được chân lý này một cách tốt hơn. Điều cần thiết là ta phải nghiên cứu và hiểu rõ một trong những mô thức của Đức Phật nói về y tương sinh (dependent origination) “Có thức là xuất hiện Danh và Sắc” chấp nhận chân lý của mô thức này sẽ cho phép ta nhận ra, khi con người ta sinh ra trên cõi đời này, chính thức là nhân duyên tác thành tạo ra thân xác thô thiển từ máu người mẹ của ta. Tuy nhiên xét về góc độ thể chất, chúng ta đều biết các phần của thân xác chúng ta như tóc, răng, móng tay móng chân, xương cốt v.v… xuất hiện thông qua nguyên lý nuôi dưỡng do máu huyết của người mẹ ngày từ khi toàn bộ những bộ phận này mới chỉ là một phôi thai nằm trong bào thai người mẹ. Đến đây tiến thêm một bước nữa, chúng ta cần phải biết thêm điều gì lại có khả năng biến đổi máu của người mẹ trở thành những thành tố cấu thành đó trở thành nhứng bộ phận rắn chắc mà ta gọi là máu, tóc, răng xương v.v…

Từ những trích đoạn nơi giáo lý của Đức Phật ở trên, nếu như khái niệm “tạo hóa” vẫn còn được coi trọng, chúng ta có thể nói “tạo hóa” chẳng là gì khác hơn là thức hay là “tâm” là điều Đức Phật muốn ám chỉ. Tâm này đứng đàng sau qui trình hơi thở của cuộc sống đối với bào thai trong lòng mẹ, biến đổi thức ăn được tiêu hóa thành máu và máu tức là các thành tố khác nhau của máu lại biến đổi thành tóc, móng, răng v.v… làm thành một cơ thể vật lý. Chính vì thế đây là luật tự nhiên “tạo hóa” ở một mức độ tinh tế hơn, hay là cùng một cách thức, tỷ dụ như luật trọng lực, trong bình diện vật lý. Làm cho một vật rơi xuống trái đất vậy.

Đến đây, điều gì Đức Phật đã nhìn thấy hay thể hiện được khiến ngài nói lên điều đó? Trong Kinh Phật chúng ta thấy, trong số những khả năng tạo ra “Ý Sinh Thân” có thể được phân biệt, hay là được tác tạo thành thông qua thành tích những khả năng siêu nhiên của ngài. Nhờ đó ngài đã biết được những cõi khác của cuộc sống là có thật và những chúng sanh cư ngụ trong các cõi đó được gọi chung là chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika), kể cả tuệ giác trổi vượt hơn hẳn những chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) này, tuy nhiên những chúng sanh này đã biến hóa một cách cao hơn. Điểm này đã được đề cập đến trong chương hai trang 61, bàn về tuệ giác của Đức Phật được gọi là Adhidevañāṇadassana. Vì đối với nhiều người một cách chung chung, có rất ít người, nếu không phải chỉ có một số rất ít nhìn ra được một chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) là có thật. Trong số rất ít đó, lại chỉ có một số ít hơn không tin vào những gì họ nhìn thấy; họ cũng chẳng hiểu họ nhìn thấy như thế nào và tại sao họ lại có được cảnh tượng đó. Trong nhiều trường hợp họ lại gạt điều đó sang một bên, kết luận là đó chỉ là ảo giác và dừng lại ở đó.

Với sự chấp nhận nguyên lý “thiên nhiên” hiểu theo nghĩa rộng này, ta có lý khi nói rằng điều kích hoạt những cơ quan giác quan, khiến mắt có thể nhìn thấy được, tai nghe thấy, mũi ngủi được, luỡi nếm, tay sờ mó, và suy nghĩ được, chẳng là gì khác hơn là chính thức hay là “Tâm”đóng vai trò một “động lực đầu tiên” (First mover) hay là một lực chuyền đứng đằng sau hành động thấy, nghe, ngửi. v.v…Chính vì thế khi động tác nhìn diễn ra, chính là “tâm” hay nhãn thức nhìn thấy vậy (thông qua thần kinh nhãn). Cũng như vậy khi có động tác nghe, hay ngửi nếm, tiếp xúc và suy nghĩ. Cũng y hệt như vậy chính thức hay là “tâm” thực hiện điều này. Tâm thực hiện hành động này thông qua các “kênh” hay là các công cụ là mũi, lưỡi, thân xác (da) và cái được gọi là ý hay là “tâm” chính vì thế mà Đức Phật dùng một từ là Nhãn Thức (Cakkhurññāṇa) có nghĩa là thức thông qua mắt sotaviññaṇa- Nhĩ thức tức là thức thông qua tai v.v… chấp nhận những định nghĩa nêu trên sẽ dẫn đến tuệ và trí cho rằng không phải mắt nhìn thấy cũng chẳng phải tai nghe, hay mũi ngửi được v.v… nhãn xứ,nhĩ xứ, tỷ xứ, và các xứ khác chỉ là những sắc thần kinh hay là những kênh thông qua đó “Tâm” có thể thực hiện nhiệm vụ của mình. Chính vì thế các xứ vừa kể không phải là nhân duyên của những nhiệm vụ đó. Điều này giống như một cây mọc lên từ những hạt giống của cây đó, mới là nhân duyên của các cây đó. Điều này đúng như vậy. Đất trồng có thể đóng vai trò bổ sung hay là phương tiện cho cây mọc lên mà thôi. Bản thân của đất trồng không thể đem sự sinh ra cho cây, cho dù không có đất thì cây không thể phát triển được. Cũng như vậy đối với những điều kiện khí hậu, độ ẩm, chỉ được dùng như là những nhân duyên hỗ trợ cho cây lớn lên. Nếu ta cho là chính mắt có thể nhìn thấy chẳng lẽ là chúng ta cao bằng cho là đất trồng đã làm nảy sanh ra cây hay sao. Đây chính là một đánh giá quá cao và tạo ra những hiểu lầm nghiêm trọng ở mức độ một sự thật tuyệt đối hay là phân tích đến cùng mà ra. Chính vì thế chúng ta không nên phóng đại quá khi nhấn mạnh đến nguyên lý tuyệt đối này như là điều gì đi ngược lại những nguyên lý qui ước.

Mục tiêu và ý nghĩa

Còn có một chân lý khác nữa không được coi nhẹ, một nguyên tắc cho là bất kỳ điều gì được sản sinh ra trong thiên nhiên hiểu theo ý nghĩa qui ước của từ ngữ đều không nhằm đến một mục đích nào hay đem lại một ý nghĩa nào cả. Có nghĩa là thiên nhiên không hàm chứa một ý định nào hay một ước muốn nào ở phía sau cả. Điều này ta có thể thấy trong cơn gió thổi, cây đổ, lửa cháy trụi nhà, mưa đổ xuống, hay sấm sét nổi lên. Một điều rất thực là chúng ta có thể giải thích những hiện tượng đó xảy ra. Nhưng chúng ta không thể nói được tại sao hay vì mục đích gì những điều đó lại xảy ra giống như vậy. Điều này thì hoàn toàn khác so với những gì đã xảy ra đối với những gì được thức hay “tâm” tạo ra. Vì chúng ta có thể nói cho mọi người biết về mục tiêu hàm chứa trong đó hay là một ý định, có nghĩa là một ý nghĩa hàm chứa đàng sau sự việc đó. Toàn bộ các căn các chi nội tạng trong con người được tạo nên không do ngẫu nhiên, nhưng để nhằm phục vụ cho một mục đích gì đó.. tóc, răng, xuơng, tim gan phèo phổi và các thứ khác tất cả đều có mục đích riêng của nó. Tất cả có bằng cách này hay cách khác đều có liên hệ với nhau, hay đan xen vào với nhau trong một hệ thống, ở đây là thân xác của con người. Ngay cả bộ não cũng chỉ là một kênh thông qua đó thức hay là “tâm” thực hiện nhiệm vụ dưới dạng suy nghĩ hay cảm nhận (tình cảm).

Nếu chúng ta dừng lại và nhìn vào các phần khác nhau của một cỗ máy do con người tạo ra, chúng ta sẽ thấy mỗi một bộ phận hay toàn thể cấu trúc của cỗ máy đều nhằm thực hiện một mục tiêu này hay mục tiêu khác nào đó. Chẳng có bộ phận nào được chế tạo mà không nhằm một mục tiêu nào cả. Đương nhiên điều này là do kết quả của bộ não con người tạo ra. Cùng một cách thức như vậy và theo một nghĩa rộng. Mỗi một bộ phận và toàn bộ các bộ phận của thân xác con người ta được biết là đã tồn tại nhằm một mục tiêu duy nhất là tương quan với các bộ phận khác, toàn bộ các bộ phận gom lại chỉ nhằm một mục tiêu duy nhất là nuôi dưỡng toàn bộ thân thể con người. Chúng không xuất hiện một cách ngẫu nhiên hay không có mục tiêu nào cả. Vì chúng đều là công trình của tâm. Giống hệt như mỗi chi tiết trong một cỗ máy đều là công trình của trí óc con người. Chấp nhận sự thật này, chúng ta sẽ hiểu được tuệ hay là “tâm” và khối óc của con người không phải là một; cả hai cũng không thuộc một lãnh vực giống nhau. Trí óc chỉ là dụng cụ, hay là kênh truyền tải những thể hiện hay những biểu lộ của “tâm” mà thôi. Tác giả muốn cung cấp cho bạn đọc những sự thật này như là một món ăn tâm dành cho những người có tư duy và dành cho ai hoài nghi chính cống, có nghĩa là những ai còn tha thiết với tâm rộng mở và chấp nhận những sự thật mới thông qua những sự kiện xem ra đã có vẻ “xa lạ” nếu không muốn nói là kỳ quặc trong tâm của họ.

Hơn thế nữa, với từng bộ phận của cơ thể đều có những chức năng đặc biệt cho thân xác, một điều tiếp theo đó là các hành động và từng hành động một hay từng cách thức cư xử của những bộ phận đó sẽ chắc chắn được điều hành cho phù hợp với những mục tiêu đã được định trước cho chúng. Đây lại là một bằng chứng nhờ đó liên quan đến “tác nhân” đàng sau những sự việc đó, những thái độ đó hay những qui trình đó, có nghĩa là tiềm thức hay “tâm” được gọi là “động lực đầu tiên” (prime force) hay là một lực truyền (driving force) nếu bạn muốn gọi là như thế. Thế nên, nếu thứchay “tâm” có thể tạo ra được một thân xác thô thiển. Thì với những tác nhân hỗ trợ của cha mẹ, khí hậu và những thành tố khác của trái đất này, tại sao không thể tạo ra được từ những động lực sáng tạo của riêng mình một thân xác tinh tế, độc lập khỏi cõi vật chất này những nhân duyên tác thành dụng cụ – theo đúng chiều kích của mỗi thành phần?

Thức Hay “tâm” thuyên chuyển

Đương nhiên đây chỉ là một lý luận theo kiểu lô-gic, một lối suy ra từ những thành tố đã biết rõ suy ra những sự kiện chưa được biết. Từ những sự kiện đã quá rõ ràng đến chân lý xem ra bí hiểm. Nhưng chính như vậy chân lý to lớn và sâu xa đã được khám phá. Nếu chúng ta chú tâm tiếp tục một cách cẩn thận và có hệ thống với những lý luận của chúng ta, đối với những ai có được những sức mạnh siêu phàm như thể Đức Phật và một số các đồ đệ của ngài, chắc chắn đây chính là sự thể hiện của họ, là thắng trí của họ vậy. Họ đã có khả năng tạo ra được hay phân biệt được. Chỉ để xem được, một “Hóa tâm thông” ngay cả khi họ vẫn còn sống trên trần gian này. Một điều mở ra như vậy, những bậc thánh nhân như đã đề cập đến ở trên là những con người thuộc hai cõi. Có khả năng di chuyển thức của họ qua lại giữa trần gian thô thiển này sang cõi vô hình thuộc cõi Hóa Sinh (Opapātika) theo ý muốn và ngay lập tức. Hơn thế nữa họ còn có khả năng biết được, vì họ có khả năng nhận ra, người chết hiện đang được tái sanh ở nơi nào sau khi họ đã từ biệt cõi đời này. Bằng cách nào họ đã đến được đó và cõi nào hay môi trường nào hiện họ đang trú ngụ. Điều này thông qua sức Thiên Nhãn Thông (clairvoyance) của họ mà có. Đặc biệt là Đức Phật, ngài còn có một tuệ giác thêm vào đó như đã được mô tả trong chương bàn về Nhớ Lại Tiền Kiếp, khả năng này còn cho phép ngài nhìn thấy cuộc sống quá khứ của bất kỳ người nào theo ý ngài muốn. Như vậy ngài có thể nhận ra cuộc sống người đó đã sống, người đó đã sống ở đâu, tên là gì và hoàn cảnh gia đình ra sao và những dữ liệu có liên quan.

Động lực đầu tiên (prime mover) có nghĩa là thức (tâm) có khả năng tạo ra và nuôi dưỡng bất kỳ hình thức cuộc sống nào, ở đây còn gồm có cả cuộc sống của súc vật và cây cối nữa. Bất kỳ nơi nào có cuộc sống, dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều có thức (tâm) hiện diện. Chính vì thế đây chính là ‘bản chất’ theo nghĩa rộng, tạo thành và duy trì sự sống, biến đổi thực phẩm trở thành máu và các thành phần khác của một hệ thống thân xác, cho dù đó là của con người, súc vật hay cây cối. Cuộc sống đó xuất hiện rất đa dạng là do rất nhiều những chi tiết phong phú khác nhau thuộc các mức độ hay chất lượng của chính thức đó. Một bài kệ mở đầu cho tác phẩm Pháp Cú Kinh (Dhammapada) được trích ở đây để xác thực chân lý này. Hiểu theo nghĩa đen cho rằng tâm (ở đây được hiểu là thức hay là tâm) chính là tiền thân của các pháp. Trổi vượt lên trên hết mọi tâm, toàn bộ các pháp đều do tâm mà tạo thành. Lại còn một câu trích trong Kinh Cūlakammavibhanga [1] cũng đáng được lưu ý như sau. Chính là do “Kammaṃ satte vibhajati yadidaṃ hīnappṇītatāya: Nghiệp chướng khiến cho mọi chúng sanh khác biệt lẫn nhau. khiến cho chúng sanh từ chỗ thô thiển và trở nên tinh tế.”

Còn về di truyền thì sao?

Một vấn đề đang được nghiên cứu tìm hiểu nổi lên ở đây cho là tại sao thức hay là “tâm” đã thực sự trở thành một lực tạo thành thân xác, một thân xác giống như một kết quả của lực tác tạo xuất phát từ cha mẹ, ít nhất hay trong một vài trường hợp ở một mức độ đáng kể, điều này hoàn toàn ăn khớp với cuộc sống hiện thấy được trên thế giới hiện nay. Điều này có phải là khái niệm về di truyền không có một chút sự thật nào hay sao?

Câu trả lời là di truyền cũng góp phần đáng kể trong toàn bộ qui trình này. Nhưng không phải là thành tố hay nhân tố duy nhất trong qui trình này. Vẫn còn một thành tố khác nữa cần được nghiên cứu nếu chúng ta muốn nhìn vào hình ảnh nguyên trạng của toàn bộ vấn đề. Đây chính là thức giới đứng đàng sau qui trình sắc. Cũng phải nói thêm, đây là một qui trình sáng tạo nói về danh và sắc trong lòng mẹ. Chính vì thế, cả hai gộp lại nhiệm vụ với nhau trên cõi đời này lại có thể phân biệt được một cách đều nhau. Nhưng ở góc độ cuộc sống siêu hình thuộc cõi Hóa Sinh (Opapātika) thì không cần thiết phải có cha mẹ và như thế vấn đề di truyền theo như chúng ta hiểu không có phần can dự nào cả. Như chúng tôi đã đề cập đến ở trên. Một người chết tức là thân xác thô thiển này sắp phải chết hay là tan rã thì thân xác Hóa Sinh (Opapātika) liền xuất hiện ngay vào sát na giống như bản sao thân xác thô thiển này vậy. Thân xác này cho đến khi nào còn tồn tại trên bầu khí quyển này tức là ngôi nhà cũ của nó. Tức là cõi đời này, cho đến khi nào người đó chưa được đưa đến một cõi nào đó tương xứng với nghiệp chướng vào sát na thân xác của người sẽ nhận lấy hình thù, nét đặc trưng và sự tinh tế của cõi đó, là thân xác Hóa Sinh (Opapātika) này hay bạn có thể gọi đó là thân thể được tái sanh nơi tâm hữu phần có nghĩa là Tâm Hộ Kiếp (Bhavaṇga-citta) không có cha mẹ theo ý nghĩa của từ chúng ta thường hiểu trên cõi đời này có ảnh hưởng gì hay giữ vai trò gì trong đó. Cho dù cho mẹ có tạo ra được hiệu quả nghiệp chướng gì người đó đã tích lũy được từ xưa đến giờ. Cho đến nay đã có đủ bằng chứng để khẳng định điều đó đối với những người nghi ngờ chân chính., nơi những ai tự cho mình là đã nghe theo lý lẽ ở một mức độ nào đó.

Như trên đã đề cập đến thân xác hóa sinh (Opapātika) cũng có các bộ phận và các chi giống y như thân xác . Thân xác đó cũng có năm căn có thể hoạt động tốt – Nói chung, không nói đến căn thứ sáu có nghĩa là tâm trong nhiều trường hợp còn có thể hoạt động tốt hơn. Đặc biệt những người đang trong nhàn cảnh chấp nhận điều này là có thực. Vì vẫn còn có một điều nghi ngờ- và còn là một nghi ngờ hợp lý nữa là đàng khác. Đó là làm thế nào và tại sao thức có thể biết được điều gì đã được tác tạo ra và dùng vào mục đích gì nơi một cỗ máy phức tạp cao độ như vậy được gọi là một thể xác. Về câu hỏi này tôi muốn đưa ra ý kiến riêng của tôi là điều này chính là tài khéo và sự lưu loát bao trùm lấy chính thức vậy. Một cặp song hành có thể rút ra được từ cùng một khả năng trong lãnh vực trần tục như trong khoa học, toán học, kiến trúc và nhiều môn khác nữa đối với những ai đã kinh nghiệm qua được trong lãnh vực riêng của mình khối kiến thức ngầm hiểu các câu hỏi bằng cách nào, tại sao và lý do gì việc làm đó lại tự động diễn ra, hay bằng trực giác, hầu như chỉ trong một giây lát, tuy nhiên cho dù chúng đã đạt được những tư liệu cần thiết để thực hiện như vậy. Những điều này còn cần nhiều thời gian và cố gắng và rất có thể còn cần nhiều nhân tố phụ trợ khác nữa như là người tổ trưởng và các công nhân dưới quyền ông thể hiện những tư tưởng và chương trình của họ. Trong khi đó ở trường hợp thức hay là “tâm”, đặc biệt đối với việc sáng tạo ra thân xác Hóa Sinh (Opapātika) thì toàn bộ nhưng vật liệu cần thiết đã được gắn kết nơi chính trong đó, những “tư liệu” này thực chất cũng là sắc pháp, nhưng ở một góc độ tinh tế hơn hay với một từ hiện đại và khoa học, những “pháp đó” thuộc tần số rất cao hay là thuộc siêu tần số, nhưng dẫu sao chúng vẫn là sắc pháp. Trong Đạo Phật, thân xác đựơc tinh luyện bao gồm những giới đã được thanh tịnh và được gọi là Sắc Tế (Sukhumarupa) trong khi đó thân xác thô thiển thuộc cõi trần gian này được gọi với tên là Sắc Thô (Olārikarūpa). Vì thế cả hai loại thân xác đều xuất phát từ một nguồn gốc giống nhau. Có những trường hợp một số người thường nhìn thấy sự xuất hiện của thân xác Hóa Sinh (Opapātika) của một người chết trong trường hợp phải chết tức tưởi như bị tai nạn chẳng hạn. Thân xác Hóa Sinh (Opapātika) có thể quay trở lại thăm các người thân hay bạn bè của mình y hệt như tình trạng diện mạo khi bị giết trong tại nạn. Máu chảy từ vết thương, xương xẩu bị gẫy giống như các bộ phận của thân xác lúc bị tai nạn. Kể cả nước tiểu và phân thường thấy nhắc đến nữa, đây lại là một bằng chứng nữa thường được dùng để xác nhận chân lý cho là thân thể Hóa Sinh (Opapātika) có thể giống hệt như bản sao thân xác cõi trần của nó vậy. Như đã nói ở trên ít nhất cũng vào lúc này.

Siêu Hình Là Nguồn Hữu Hình

Điều này cũng có thể giúp loại bỏ được một loạt những nghi kỵ nơi một số người không hiểu được bằng cách nào, thức có thể tạo ra được một thân xác khác tinh tế hơn là bản sao trần tục của thân xác đó. Tôi muốn tái khẳng định ở đây rằng, vì thân xác được tinh tế của chúng sanh hóa sanh (Opapātika) là một vật giống hệt như bản sao thân xác con người ta, thân xác này phải được tác thành bằng bốn giới đó là: đất nước gío và lửa. Phần rắn chắc của thân xác hóa sanh, chính vì thế mà có phần kém hơn đôi chút mặc dù hay là vì thân xác này có hơi tinh tế hơn một chút. Thực chất chính vì điểm nó được tinh tế và vô hình đó là lý do tồn tại (raison d’être) nguồn gốc của sự kém tinh tế và hữu hình. Chính vì thế mà, lấy thí dụ như tóc và xương thường tồn tại trước tiên nơi một tần số cao hơn trước khi xuất hiện ở một tỷ lệ tần số thấp hơn. Chứng cớ có rất nhiều nơi những vật tồn tại trên trái đất của chúng ta, nếu chúng ta ngưng suy nghĩ đến chúng trong giây lát. Không khí, hay gió, khí ga và nhiều hình thức năng lượng đa dạng là những ví dụ cụ thể cho sự thật này. Bất kỳ điều gì con người đã thực hiện trên hình thức sắc hữu hình này đều là thí dụ điển hình như là một định luật phát xuất từ hình ảnh tâm của con người đó mà ra. Điều đó xuất hiện trước tiên trong tâm người đó dưới dạng một vật vô hình.

Nếu chúng ta ngừng suy nghĩ về điều kiện thuộc những lãnh vực vô sắc trong Phật giáo thường gọi là Thiền Vô Sắc Giới (Arūpajhana), tức là những cõi thuộc những ai đã đạt đến được Thiền Vô Sắc, chúng ta sẽ thấy làm thế nào sự vô hình có thể tồn tại được mà không có sự hữu hình, tức là “Danh” vô “Sắc” trong khi đó ngược lại thì không thể được. Trong ngôn từ khoa học hiện đại, trong một số trường hợp tuyệt đối và cá biệt, điều này giống như danh chỉ có thể tồn tại được mà không có sắc, nhưng lại không thể ngược lại được. Chính vì thế đây là một ngoại lệ. Tuy nhiên, đây là một ngoại lệ rất có giá trị chứng tỏ rằng bằng cách nào đó một điều gì đó có thể tồn tại không cần đến vật gì khác, mà vật này không thể tồn tại được nếu không có điều này..

Trong trường hợp như thế, có thể đặt thành một qui luật cho rằng, chỉ trừ trong trường hợp những cõi thiền vô sắc giới (formless Jhana), còn trong toàn bộ các cõi khác thuộc các chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) đều thấy xuất hiện điều được là bốn giới: địa, thủy, khí hay phong và hỏa, đương nhiên sự khác biệt, hệ tại ở trình độ và mức độ trưởng thành siêu nhiên cũng như trình độ sắc tế mà ra có nghĩa là bốn “giới” như là kết quả xuất phát từ đó. Đây là sáu cõi Dục Giới (kāmāvacarabhūmi) có nghĩa là các cõi dục, có thể nói đây là các nhàn cảnh (tuy nhiên hạnh phúc ở đây lại rất khác nhau tùy thuộc vào mức độ) bốn khổ cảnh (apāya) và mười sáu cõi Thiền Sắc Giới (rūpajhāna).

“Lúc này sức mạnh sáng tạo của “thức” (tâm) cũng lệ thuộc vào sắc rất nhiều, có nghĩa là bốn “giới” của mỗi cõi. Như vậy trong cõi thế gian thô thiển, thì sắc thô thiển lại đóng một vai trò làm chậm lại qui trình sáng tạo. Chính vì yếu tố này mà giai đoạn thụ thai đối với con người cần tới chín tháng trước khi sinh khởi thực sự có thể diễn ra. Nơi súc vật giai đoạn này có thể thay đổi, nhưng chắc chắn phải có một thời gian nào đó lâu dài hơn kém so với con người. Trong khi đó sinh khởi của súc vật vào cõi Hóa Sinh (Opapātika) diễn ra giống như con người, xảy ra ngay lập tức, sức mạnh tái tạo của thức có tiếng nói tuyệt đối ở đây. Bất kỳ giới nào trong bốn giới đó đều có thể được rút lại và lợi dụng Sắc thân thích ứng ngay với sự tinh tế của các cõi đó. Khả năng rút bất kỳ thứ gì rất cần thiết đối cho qui trình sáng tạo lại là một khía cạnh lưu loát khác của thức (tâm). Ngoài sự lưu loát như đã đề cập đến ở trên, điều này giúp am hiểu được điều gì nên được tác tạo và dùng vào mục đích gì, và điều quan trọng nhất là tác tạo bằng cách nào, nghĩa là biến đổi chúng nhằm đáp ứng nhu cầu ngay tại chỗ.

Yếu Tố Song Hành Và Bổ Sung Cho Thức

Từ những đoạn đã được thảo luận cho đến lúc này, thẳng thắn mà nói ta thấy thân xác được sinh ra hay xuất hiện không chỉ thông qua những thân căn hay đi kèm với nhiều giới khác nhau theo một tỷ lệ thích hợp và do những phản ứng hóa học xuất phát từ đó thôi đâu, nhưng còn có một nhân tố quyết định đàng sau qui trình đó. Nhân tố này Phật giáo gọi là Thức (Viññāṇa). Tuy nhiên ở mức độ phân tích sâu xa hơn, có một vài yếu tố song hành cùng xuất hiện chung với Thức. Liên quan đến tâm của những người đời thường, Đức Phật đã mô tả những yếu tố này là Xúc (phassa), (Cetanā) hay là sở hữu tư, Ái dục (Taṇhā) và Thủ (Upādāna). Toàn bộ những yếu tố này đi kèm theo một cách tự nhiên cùng với một hiện tượng chẳng hạn như Nhãn Thức hay còn gọi là Cakkhuviññāṇa. Điều này đã được đề cập đến trong điều gọi là y tương sinh (dependent origination) hay còn gọi là duyên khởi (paṭiccasamuppāda) nguyên lý này đã được trình bầy trong cuốn sách hiện đã được dịch sang tiếng Anh có tựa đề là BUDDHILOGY hay là BUDDHAVIDYA. Tóm lại, mục đích của tôi là nhấn mạnh đến chân lý cho là thân xác, cho dù là của con người, loài vật hay là một chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) cả trong nhàn cảnh cũng như trong khổ cảnh, đều gồm có hai phần cơ bản, đó là sắc và danh, mỗi thành phần này lại còn được chia thành nhiều phần phụ nữa thuộc nhiều thành phần nhỏ khác nhau, ta có thể nói như vậy hoặc là các yếu tố đi kèm theo với hai yếu tố cơ bản đó. Chính vì thế theo lời dạy của Đức Phật trong Kinh Cūlakammavibhañga [2] kết quả là chúng ta phải chịu nghiệp chướng là do những tài sản của chúng ta, những di sản của chúng ta, do sanh thân quyến, và nơi nương tựa của ta nữa. Bất kỳ điều gì chúng ta thực hiện. Cho dù tốt hay xấu, chúng ta buộc phải trải qua những hậu quả đó.

Một tác phẩm biên soạn kỹ càng và nghiêm túc về những lời dạy của Đức Phật sẽ chiếu rọi một ánh sáng về chức năng của cha mẹ chúng ta, về di truyền, về cuộc sống của mỗi con người. Ít nhất chúng ta sẽ có thể biết được, chúng ta được thừa kế bao nhiêu từ phía cha mẹ chúng ta, có nghĩa là do nghiệp chướng chúng ta tích lũy được từ xưa nay nhiều hơn là từ những gì cha mẹ chúng ta để lại như: những nét đặc trưng, màu da, và những đặc tính khác liên quan đến thân xác của chúng ta. Trong thực tế những đặc tính thân xác đó phải đảm nhiệm một số hay nhiều điều từ phía cha mẹ chúng ta. Khí hậu và giống nòi chúng ta được sinh ra. Trong Y tưởng sinh, Đức Phật đã đề cập đến hậu quả cho là Ái dục (Taṇhā) hay là ước muốn và Chấp thủ (Upādāna) hoặc giả tham lam đã truyền lại cho con người những gì đã được thừa hưởng, để trở thành một người hiện hữu. Nếu xét đến khía cạnh siêu nhiên chắc hẳn phải có gì đó truyền lại “đôi điều gì đó cho tất cả chúng ta, chắc hẳn chỉ có cặp sở hữu tư là ái dục (Taṇhā) và thủ chấp (Upādāna), do đó chúng ta thừa hưởng tất cả nhào nặn thành con người chúng ta có hiện nay, Dù ta có biết hay thích điều đó hay không. Vì đây là một qui trình tự nhiên (không chủ tâm) y hệt như hệ thống tiêu hóa của chúng ta vậy.

Di Truyền Sinh Học Sau Khi Chết

Chức năng của di truyền sinh học, cần được nghiên cứu, vẫn còn phần vụ tích cực sau khi con người ta đã chết, thực vậy, như đã nói đến ở trên, tạm thời lúc này người chết sẽ hiện nguyên hình thân xác và những nét đặc trưng của con người cũ, kể cả quần áo họ đang mặc trong người. Điều này diễn ra như khi họ vẫn còn sống trên đời này, là ngôi nhà xưa của họ. Một thời gian sau họ mới được nhập vào cõi thích hợp với sự trưởng thành siêu nhiên, lúc này mới diễn ra thay đổi cho hợp với đặc tính môi trường nơi họ được chỉ định cho cư ngụ. Từ đây trở đi di truyền siêu nhiên sẽ diễn ra và họ sẽ trở thành điều họ đáng được một cách siêu nhiên.

Chân lý này cho ta biết thêm một điều đó là: Trong Tiềm Thức (tâm) mọi người chỉ trừ trí của bậc thánh A-la-hán, luôn hàm chứa một lượng, hay một mức độ ái dục (Taṇhā) và thủ chấp (Upādāna) nào đó và dĩ nhiên đó là lượng thiếu hiểu biết, tức là Vô minh (avijjā). Như vậy, nếu trong mọi sinh vật đều có Thức, ngay cả ở mức độ vi mô, tức mọi tế bào sống, thì hậu quả cũng là thức hiện hữu trong tinh trùng người nam chẳng khác gì nơi một đơn vị nào khác – nếu như “đơn vị” được coi là thích hợp, như vậy Thức cũng hiện hữu nơi trứng của người phụ nữ, và cũng có cả hai ái dục (Taṇhā) và thủ chấp (Upādāna) trong đó. Đến đây, khi trứng được thụ tinh do tinh trùng nam, thì hai “đơn vị” có thức đó đã phải trải qua đủ mọi giây phút “sinh” và “diệt” và cả hai thức đó được thế bằng một Thức khác qua qui trình thụ tinh đó (2 trở thành một “đơn vị” thức duy nhất khác). Đây chính là vai trò, hay là qui luật tự nhiên, chi phối sự sống của các chúng sanh đơn bào như các tế bào bắp thịt, tế bào xương v.v…. Kể từ giờ phút này trở đi thì Thức lại chi phối qui trình sự sống và phát triển bằng thức “Sinh.” Chính nhờ tiềm thức “sinh” này, một đứa trẻ được thụ thai, thoạt tiên cũng chỉ là một bào thai sau đó trở thành một phôi thai và cứ tiến triển như vậy trong tử cung của người mẹ. Sau đó thức này còn là cơ quan biến đổi máu của người mẹ trở thành nhiều phần và cơ quan của một thân xác mới mang theo một số đặc tính giống hệt với thân xác của cha và mẹ của đứa bé điều này diễn ra là do ảnh hưởng thô thiển vật lý của “môi trường mới” hay chúng ta có thể gọi là ‘căn nhà mới” của đứa bé. Như đã đề cập đến ở trên, ta cũng thấy có một bản sao “thân thể cõi trời” của một người vừa mới qua đời xuất hiện ngay lập tức khi thân thể cõi trời đi vào cõi mới có cuộc sống thích hợp với sự trưởng thành siêu nhiên khi còn ở tại thế, thân thể cõi trời (người chết này) sẽ mang lấy những đặc tính và thành tố “chung” thuộc cõi đó, làm nơi ở mới. Tuy nhiên ở đây, từ “chung” nói ở trên lại được nhấn mạnh đến một lần nữa, vì bất kỳ một sự thay đổi hay biến đổi nào xảy ra chẳng phải là một sự pha trộn hay tan biến nào cả. Xét cho cùng lúc nào cũng luôn tồn tại một số tính chất cá nhân nào đó, có nghĩa là những điểm đặc trưng và đặc thù cụ thể rõ ràng còn sót lại khiến cho người đó khác biệt với những người khác.

Không Phải Là Một Bản “Sao Chụp”

Điều này hoàn toàn đúng cả trong những trường hợp ở các cõi “mai hậu” và còn cả ở trên cõi đời này nữa. Hãy nhìn vào những đứa con do cùng một cha mẹ sanh ra. Tất cả đều có những yếu tố giống nhau hay một số đặc điểm chung và những nét đặc trưng được thừa hưởng từ nơi cha mẹ để lại. Điều này dễ nhận ra cũng như quan sát được. Tuy nhiên mỗi cá thể lại có một số đặc tính cá nhân hay cá tính riêng biệt của mỗi người. Chẳng ai là một bản sao chụp của cha mẹ hay của một ai khác cả. Tuy nhiên có một số ngoại lệ đối với luật này trong những trường hợp các cặp song sanh, những nét đặc trưng của họ và các đặc điểm thân xác khó có thể nhìn ra sự khác biệt. Đây là những trường hợp đặc biệt khi cả hai thường khoanh tay lại, họ thường làm những điều hầu như hoàn toàn giống nhau hay như nhau và lại thề là sẽ gắn bó cuộc sống của họ trong cuộc sống mai hậu. Tuy nhiên vẫn còn đó một số khác biệt rất tinh tế trong diện mạo thân xác, mà chỉ có cha mẹ họ mới nhận ra và ngay cả trong những phản ứng của họ trước những hoàn cảnh cụ thể thì chỉ có chính họ mới có thể biết được.

Trừ những trường hợp khác thường đặc biệt trên, có một luật chung được chấp nhận như sau: “Chẳng có hai cá nhân nào trong chúng ta bằng nhau như in hay hoàn toàn giống nhau dưới mọi góc độ hay trong mọi tình huống cả”. Chúng ta chỉ được thừa hưởng có một phần về mặt thân xác từ phía cha mẹ chúng ta; tuy nhiên chúng ta cũng thừa hưởng cùng lúc đó một phần khác - cũng là một phần cốt yếu từ chính nơi chúng ta. Điều này ám chỉ đặc tính tâm và siêu nhiên. Phản ứng trước những hoàn cảnh cụ thể, ý thức về giá trị, hay về một mức độ trưởng thành hay thiếu trưởng thành nào đó. Rất nhiều trường hợp một đứa bé thần đồng lại được cha mẹ bình thường hay rất xoàng sinh ra. Từ khi sinh ra Đức Phật đã biểu lộ một số đặc tính vượt trội hẳn không thấy có nơi cha mẹ người hay nơi chính người con trai của ngài là Rāhula. Toàn bộ những điều này phản lại chân lý cho là di truyền (và cả môi truờng nữa) chẳng phải là tất cả.

Di truyền là một sự thật phức tạp, đòi hỏi nghiên cứu và tìm hiểu cả ở góc độ vật chất, sinh học và siêu nhiên cũng như nghiệp chướng nữa. Một điều hết sức bất hạnh là có quá ít những nhà nghiên cứu và các nhà khoa học quan tâm thực hiện những thí nghiệm hay nghiên cứu về khía cạnh này. Có nghĩa là chân lý sinh học đã đủ hết mọi sự cần được học hỏi. Đây là một sai lầm nghiêm trọng và cơ bản kết quả thấy được nơi cái gọi là chân lý nửa vời hay thực tế còn ít hơn cả phân nửa sự thật. Nơi Đạo Phật chúng ta tìm thấy câu nói sau đây của Đức Phật trong Pháp Cú Kinh (Dhammapada)

“Chỉ có các vị thánh đệ tử hữu học mới có thể nhận ra được thân xác này (ám chỉ một chân lý là họ biết được bằng cách nào và tại sao con người ta được sanh ra, sống như thế nào, và sẽ đi về đâu sau khi thân xác này tan rã). Sau khi thể hiện được điều này họ cũng có thể nhận ra được các cõi Diêm vương (Yama) (có nghĩa là bốn cảnh khổ) và các cõi thiên đường (có nghĩa là các cảnh hạnh phúc)”

Từ “Sekha” ở đây có nghĩa là những đồ đệ bậc thánh, từ các Đấng Dự Lưu (Sotapnna) trở lên cho tới các vị Quả Bất Lai (Anagami). Hiểu theo nghĩa đen đó là những người vẫn còn đôi điều gì đó còn phải học hỏi (và tu luyện) thêm, sau khi đã đạt đến giác ngộ hoàn toàn. Đoạn văn trên làm rõ rằng một trong những đòi hỏi đối với các vị Tôn Giả đó là thể hiện được Y tương sinh có nghĩa là Paṭiccasamuppāda

Tiến Bộ Về Mặt Kiến Thức

Lợi ích do việc nắm được Manomayiddhi (phép Ý hóa tâm thông) hay là tạo một “thân xác tâm ” sẽ đem lại một lối thoát cho cuộc nghiên cứu hay tìm hiểu về di truyền sinh học, mở rộng tầm kiến thức và đào sâu hiểu biết về chân lý phát xuất từ đó. Theo ý kiến của tôi nhu cầu xuất phát từ đó chính là một con người đã được khả năng này và có thể chứng tỏ cho công chúng biết trước khi họ hoàn toàn được cả những người đời thường và các trí thức chấp nhận một cách không dè dặt e ngại. Chỉ khi nào chân lý vĩ đại này được chứng minh một cách đầy đủ nhất cho hầu hết mọi người ở khắp nơi, thì lợi ích phát sinh từ việc chấp nhận này chắc chắn sẽ đủ để đảo ngược được xu hướng chỉ tin vào những khía cạnh sắc di truyền, và dẫn đến những kết luận buồn thảm cho là “ Sanh ra là lúc bắt đầu và chết là kết thúc tất ca” Những người đặt niềm tin dựa trên lý trí về chân lý này sẽ sẵn sàng chấp thuận chân lý Phật giáo cho rằng Thức tạo ra thân xác và chúng ta thừa hưởng tất cả (cả tâm lẫn siêu nhiên) từ việc chính chúng ta tích lũy được những điều tốt cũng như xấu. Chẳng có gì biến mất cả, ngay cả những gì chúng làm mà chẳng được ai thấy, không ai biết cũng như chẳng được ai ca ngợi.

Điều quan trọng hơn cả là, cảm thấy mắc cỡ về điều xấu xa, sợ hãi về những kết quả sẽ nẩy sinh từ bên trong nội tâm, không sợ hình phạt của người khác hay luật pháp trừng phạt. Cùng với nhiều người ngày gia tăng tin tưởng vào chân lý lớn lao này, xã hội sẽ không rơi vào rối loạn và lộn xộn hủy diệt như hiện nay. Đa số mọi người sẽ tin theo một tôn giáo mà họ sẽ lựa chọn. Không phải chỉ thực hiện những việc thờ phụng từ môi miệng mà thôi, cũng như không giả hình trong một số trường hợp. Thật đáng tiếc cho dù sự thật là có hàng ngàn bộ phận cải tiến được chế tạo do kỹ thuật hiện đại đã khiến cho cuộc sống của chúng ta thêm hạnh phúc hơn bao giờ hết, thế mà con người vẫn phải chịu đau khổ một cách trớ trêu, đặc biệt trong lãnh vực tâm nhiều hơn so với trước đây. Xã hội hình như đang rơi vào tình trạng rối loạn tuyệt vọng và thất bại thảm thương. Thực chất là kết quả của chính việc sáng tạo của con người, nghĩa là một thái độ tm sai trái, quá kiêu hãnh ấp ủ ý tưởng “sanh khởi đầu mọi sự sanh và tử lại kết thúc tất cả”.

Một lẽ tất yếu là, không phải toàn bộ các Phật tử đều có thể đạt được tuệ giác về việc Nhớ Lại Tiền Kiếp, ngay cả quá khứ của chính họ nữa. Nhưng với một trí tuệ hợp lý và một niềm tin nơi Giáo Lý của Đức Phật và sự giác ngộ họ vẫn có thể tự giữ mình đi theo Chánh Đạo và vì thế có thể duy trì thái độ tâm của mình dựa trên những chân lý Kết quả nghiệp chướng, về sự sống, đặc biệt là cuộc sống, “trước cái nôi và vượt qua cả ngôi mộ” (trước khi sanh ra và sau khi chết) và một điều quan trọng nhất, đó là đại chân lý về tâm Thức đó chính là “người sáng tạo ra thân xác, cả cái thân xác thô thiển đến thân xác được thanh tịnh, vô hình, do tâm tác thành mà mọi người thường đồng thanh gọi là thân xác Hóa Sinh (Opapātika). Điều này hòa hợp với một trong những công thức Đức Phật đã công bố trong Y tương sinh của ngài nói rằng, “viññāṇapaccaỳa Nāmarūpaṃ: (có thức thì cũng có danh và sắc).

Phát xuất từ Thức, hay từ nơi góc độ cá nhân hơn, tất cả chúng ta đã phải trải qua vô số những quá trình “Sinh Tử” trước khi xuất hiện trên cõi đời này là nơi cư ngụ tạm thời. Điều này kéo theo như là một kết quả tất yếu đó là chúng ta sẽ phải trải qua vô số qui trình sinh tử khác nữa để có thể kết thúc được quãng thời gian tạm trú này, quãng thời gian này còn kéo dài lâu mau tùy thuộc vào chúng ta, chỉ một chút ái dục (Taṇhā) và thủ chấp (Upādāna) nơi thâm sâu tâm thức của chúng ta thôi.

Chân lý cho rằng “Chẳng có bất kỳ điều gì triệt tiêu cả” Tức là các chúng sanh sống sót do nghiệp chướng, một chân lý vĩ đại vô tiền khoáng hậu– chắc chắn sẽ trở thành nguồn mạch cho các giá trị đạo đức nội tại trong tâm mỗi người chúng ta. Chẳng cần đến bất kỳ thế lực ngoại vi nào kiềm chế như luật lệ do con người đặt ra và mối lo sợ những hình phạt tạm bợ. Đây là cách thức chắc chắn nhất để chống lại khuynh hướng suy sụp luân lý và bạo loạn từ đó phát sanh và những thất bại ảnh hướng mạnh mẽ đến xã hội và quần chúng ở khắp nơi trên thế giới ngày nay. Kết quả của hành vi này chẳng là gì khác hơn là một nền hòa bình, phát triển và tiến bộ theo chiều hướng tất cả mọi người trên thế gian này đang mong đợi.

NHỮNG CON NGƯỜI THUỘC VỀ HAI CÕI

Di truyền đã quá rõ ràng
Phải đâu tất cả những điều ta tin
Niềm hy vọng đã gắn liền
Khổ đau hạnh phúc chẳng qua kiếp người.

Môi trường cũng là điều thiết yếu
Còn nhiều điều khác nữa phụ thêm
Xét toàn khối chẳng là điều to tát
Au chỉ là “chuyện nhỏ” có chi đâu.

Hóa tâm thông điều quá rõ ràng.
Phận con người Nam Phụ Lão Ấu
Đều mang nặng kiếp di truyền muôn thuở
Trong qui trình sống của mỗi chúng ta.

xác thanh tịnh đã một thời được giải thóat.
mọi ràng buộc nào cha nào mẹ hoặc của chính riêng ta.
Khi tâm bình an vạn kiếp.
Chính nơi đây hiện rõ mọi hành vi siêu phàm.

Những kỳ công Phật Tổ đã chắt chiu.
qua phép thần thông nơi Người vốn chứng đắc.
Sa-va-ka* cũng chia phần tham dự.
(* Đồ đệ bậc thánh).
Người chiến thắng phiền não nơi trần tục.
Lấy thân xác hữu hình làm minh chứng.
Đâu phải là tất cả mỗi chúng ta
Vượt trên các cõi gian tà
Đang chờ hạnh phúc bao la nghìn trùng.

Nhận thấy được thân xác điều cao quí
Gánh gian nan niềm đau khổ đan xen.
Chỉ nhờ lòng quyết tâm mỗi chúng sanh.
Ái dục cùng Chấp thủ chắc biến tan.

Làm thành viên cõi đời gồm hai kiếp.
Nhìn xa thấy rộng giải thoát ắt trong tay.
Sinh, Bệnh, Già Tử chẳng lay chuyển.
Chỉ chuyên tâm chiêm ngưỡng điều tốt đẹp.

Mong rằng tầm nhìn ta rộng mở.
Để Vô minh đừng hạn chế mọi căn môn.
Đập bỏ tan tành tường thành ngục tối
Hãy can trường thể hiện cuộc phiêu lưu.

Có nhiều điều tuyệt vời ở phía trước.
Điều phi thường chưa thể hình dung ra
Trời cao, rực sáng chói chang.
Đón chào những kẻ can trường thoát nguy.

*

THẦN TÚC THÔNG
(Iddhividhi)

So với chủ đề ba chương trước, một số ví dụ điển hình về sức mạnh kỳ diệu trong chương bốn sau đây xem ra có vẻ hơi kỳ quặc và khó tin khiến một số người đương thời hiện đại khó có thể chấp nhận được, họ đặt nền tảng suy luận và hiểu biết của mình trên khoa học thực nghiệm. Thừa nhận quan điểm này, mục tiêu của tác giả chỉ là thực hiện một khảo sát, ở một chừng mực những gì có thể đọc thấy trong các bản văn Kinh Phật, gồm những gì được ghi lại trong đó.Thực hiện điều này, Tác giả chỉ muốn hiểu được thái độ và quan điểm của những người dưới thời Đức Phật. Tuy nhiên, đang khi điều này còn tùy ở sự tự do lựa chọn của mỗi người, dựa trên khả năng phân tích để loại bỏ một số điều họ cho là hoang tưởng hơn là hiện thực. Chắc hẳn nếu ta gạt bỏ toàn bộ những sự việc đó sang một bên sẽ là điều không thích hợp và phi Phật giáo, mà không ngại đến óc phán đoán sáng suốt, để kết luận là toàn bộ những sự kiện đó chỉ nhằm quyến rũ để lừa bịp quảng đại quần chúng.

Nhìn chung, niềm tin của con người, kể cả mối hoài nghi của họ nữa lẽ đương nhiên chỉ là Các Hành (Sañkhāra) có nghĩa là những điều đó luôn tùy thuộc vào hoàn cảnh và môi trường chi phối và luôn lệ thuộc vào thay đổi và những điều chỉnh theo thời gian. Những điều này còn tùy thuộc rất nhiều vào nền giáo dục, việc nghiên cứu và những kinh nghiệm trong cuộc sống của người đó. Những gì ngày hôm nay được chấp nhận, có thể sẽ bị loại bỏ một phần hay toàn bộ trong tương lai và ngược laị. Chính vì thế danh sách và những ví dụ điển hình sau đây ít nhất sẽ được dùng để nghiên cứu sâu rộng và kỹ lưỡng, một ghi nhận trung thực về những bản văn ghi lại trong Kinh Phật qua nhiều thời đại. Như đã đề cập đến ở trên một số người rất quan tâm muốn biết về thái độ và quan điểm của những người thời Đức Phật có liên quan đến góc độ Phật giáo xuất hiện giống như một “tài năng chưa được khám phá” đối với những người tôn thờ khoa học hiện nay. Cho dù có gặp được “Hoàng Tử Đẹp Trai” làm tỉnh dậy nàng” Công Chúa Ngủ Mê” (nghĩa là. Ella) từ những đống tro tàn còn lại đó, điều còn phải được cứu xét, có thể trong suốt cuộc sống chúng ta trên cõi đời này, hay còn kéo dài tới một thời điểm nào đó trong kiếp mai hậu.

Những ai đã đọc bản dịch tác phẩm SAI BABA sang tiếng Thái, mô tả rất nhiều Phép lạ (thần thông) cũng như những khả năng kỳ diệu của Ngài, chắc hẳn đều muốn biết nơi Phật giáo có rất nhiều phép lạ (thần thông) do chính Đức Phật và các đồ đệ của người thực hiện và những bài tường thuật đó chính xác và trung thực đến mức độ nào. Một câu hỏi khác cũng được đưa ra đó là: đã có lời giải thích chính thức nào khả dĩ có thể chấp nhận được hay chưa và những lý do và khả năng những sức mạnh siêu nhiên đó đến mức độ nào.

Tôi đã cân nhắc và suy tư rất nhiều đến những câu hỏi trên trong suốt một thời gian dài. Ngay cả trước khi biên soạn các bài tiểu luận về Nhớ Lại Tiền Kiếp (Recollection of former lives), Phép Nhãn Thông (Clairvoyance) và Hóa tâm thông (Manomayakaya). Khó khăn nằm ở chỗ những điều thần kỳ siêu nhiên này rất hiếm thấy xuất hiện trong đời thường và những điển hình thuộc loại này khó thấy bất kỳ người đương thời nào thực hiện nổi. Những điều tôi đang cử ra đây chỉ thấy đề cập đến trong Kinh Phật, mà đa số những người thuộc thời đại chúng ta thấy khó có thể chấp nhận được. Cho đến khi tôi đã nghiên cứu kỹ lưỡng và chính mắt được chứng kiến hiện tượng “Ngài Sri Satya Sai Baba” đã thực hiện, với thâm tín rằng đây chẳng phải là những trò bịp bợm của nhà ảo thuật, lúc đó tôi mới đi đến kết luận là toàn bộ những sự việc Ngài đã làm chỉ nhằm khẳng định khả năng “phi thường” của Đức Phật. Đã có quá nhiều sách vở mô tả và bình luận những kỳ công Ngài Sai Baba đã thực hiện, toàn bộ những pho sách đó đều do các học giả có cá tính liêm khiết cao độ, thoạt đầu họ xuất hiện chỉ nhằm chê trách Đức Phật và lật tẩy tính cách phỉnh gạt của Ngài. Cuối cùng họ sẵn lòng chấp nhận ít nhất vào lúc này họ không thể khẳng định được việc phô bầy những khả năng đó đều là những trò lừa bịp của ảo thuật gia. Rất nhiều người đã đoan chắc hoàn toàn và chấp nhận ngài là hiện thân của một vị chư thiên nào đó.

Trước tiên tôi cần lưu ý một chút ở đây như là lời chú cuối trang. Điều này liên quan đến việc dùng từ IDDHIVIDHI. Từ chính xác phải là IDDHIVIDHA, ngụ ý muốn nói đến nhiều hay một lượng những Thần Túc Thông đa dạng (manomayiđhi). Trong khi đó từ IDDHIVIDHI thực sự chỉ có nghĩa là “cách thức và phương tiện để thực hiện những thần túc thông đó. . .” Tuy nhiên từ IDDHIVIDHI đã được sử dụng hàng nửa thế kỷ qua tại Thái Lan. với những độc giả người Thái đã quen với ý nghĩa của từ này và không còn là một từ khiến họ hiểu lầm. Tác giả lựa chọn dùng từ này (có nghĩa là từ thứ hai) mượn ý nghĩa của từ thứ nhất.

Các Phép lạ (thần thông) Nơi Phật giáo

Các phép lạ (thần thông) do phép thần thông được nói đến ở rất nhiều nơi trong Kinh Phật, hầu như toàn bộ 45 tập Kinh Phật viết bằng tiếng Thái (dịch từ tiếng Pali). Những phép lạ (thần thông) này gồm cả những việc do chính Đức Phật thực hiện và những phép lạ (thần thông) do các đồ đệ bậc thánh A-la-hán của Ngài nữa. Rất có thể nguồn rõ ràng nhất được trích từ nguồn Sa môn quả Kinh (Sāmaññaphalasutta), tôi thường trích nhiều đoạn ghi trong ba chương trước trong tác phẩm này. Tiếp theo đây là một đoạn liên quan đến việc thực hiện những phép lạ (thần thông) do phép thần thông đó:

“. . . . . Có một vị tỳ khưu đã nhập thiền định vững vàng (có nghĩa là thiền Jhana bậc bốn) do đó ngài đã được thanh tịnh và trở nên sinh động, lột bỏ khỏi những ảnh hưởng phiền não đang rình rập, trở thành kiên định, linh hoạt (nghĩa là nhuần nhuyễn và hoàn toàn tuân thủ theo ý muốn.) và không bị lung lạc, hướng tới thực hiện được nhiều sức mạnh thần thông. Chư vị đó có thể đạt đến được những công việc lạ lùng như sau:

1. Từ một người biến thành nhiều người hay từ một đồ ít đồ vật tạo ra nhiều đồ vật khác nhau.

2. Ngược lại, biến nhiều người thành một người duy nhất hay biến nhiều đồ vật thành một vật duy nhất.

3. Thực hiện (điều được gọi là) Āvibhāva nghĩa là tạo ra ánh sáng nơi bóng tối, mở ra được điều gì đang bị che khuất, đang bị giấu diếm, và chôn vùi ở nơi xa xôi không thể nhìn thấy bằng mắt thường được. Chư vị tỳ kheo có thể đem ra ánh sáng được những điều đó.

4. Ngược lại, thực hiện cái gọi là Tirobhāva có nghĩa là tạo bóng tối tại những nơi đang có ánh sáng, tạo ra vật ngụy trang giữa những nơi trống trơn, có thể đi xuyên qua những nơi không thể vượt qua nổi. Dấu không cho nhìn thấy những vật cận kề ngay trước mắt và đã được nhìn thấy.

5. Đi xuyên qua bức tường, hàng rào và cả những ngọn núi như thể những chướng ngại vật đó chỉ là không khí mà thôi hay di chuyển được trên không.

6. Chui xuống được lòng đất và lại từ lòng đất trồi lên một cách dễ dàng, giống như nhẩy xuống nước và rồi lại trồi lên khỏi mặt nước.

7. Đi trên mặt nước mà không bị chìm xuống giống như bước đi trên mặt đất vững chắc vậy.

8. Bay trong không khí giống như loài chim vậy hay ngồi lơ lửng trên không trong nhiều tư thế khác nhau, tất cả đều được thực hiện trên không.

9. Bằng chính bàn tay của mình có thể đụng tới hay sờ mó được mặt trời và mặt trăng.

10. Bằng thân xác phàm trần của mình lại đột nhập được vào cõi Phạm Thiên giống như với thể xác đã được thần thông hóa.

Tuy nhiên, những điều nêu trên không được dịch theo nghĩa đen và từng chữ một từ đoạn văn tiếng Pali nguyên thủy. Điều này chỉ nhằm tạo thuận tiện cho việc tìm hiểu đối với những độc giả chưa quen với văn phong và các thành ngữ Pali. Để tiện việc so sánh cho những ai muốn tìm hiểu trực tiếp những đoạn văn Pali. Tôi xin trích đoạn văn bằng tiếng Pali như sau:

So evam samahite citte parisudddhe pariyodate anañgane vigatūpakkilese mudubute kammaniye ṭhite anañjappatte iddhividhāya cittaṃ abhinīharati abhininnāmeti. So anekavihitaṃ iddhividhaṃ paccanubhoti.

1. Ekopi hutvā bahudhā hoti;

2. Bahudhāpi hutvā eko hoti;

3. Āvibhāvaṃ (karoti)

4. Tirobhavaṃ (Karoti)

5. Tirokuddhaṃ tiropākāraṃ tiropabbataṃ āsajjamāno gacchati seyyathāpi ākāse;

6. Paṭhaviyāpi ummujjanimujaṃ karoti seyyāthapi udake;

7. Udakepi abhijjamāne gacchati seyyathāpi paṭhaviyaṃ;

8. Ākāsepi pallañkena kamati seyyathāpi pakkhīsakuṇo.

9. Imepi candimasuriye evaṃ mahiddhike evaṃ mahānubhāve pāṇinā parimasati parimajjati;

10. Yāva brahmalokāpi kāyena vasaṃ vatteti.

(Trích trong Sīlakkhadhavagga thuộc Trường Bộ Kinh 9/130)

Những trích đoạn trên nhằm giúp xác định với quí vị độc giả một sự thật, hay đúng hơn là một chân lý, về những điều được cảm nhận cho là không thể thực hiện nổi và như vậy không thể tin được. Thực tế, những trích đoạn trên đây là chính những gì Đức Phật đã giảng dạy hứa hẹn đem lại những kết quả có thể đạt đến được nhờ có tâm được thanh tịnh đạt đến được mức cao siêu siêu phàm. Yêu cầu tối thiểu phải đạt đến là Thiền Bậc Bốn (fourth jhana) và một điều không thể thiếu được và kèm theo với năm loại thuần thục (vasī) (hay là Fluency) trong việc quyết định, tự rút lui vào nội tâm, tự xuất hiện, quyết đoán và hành thiền. Năm điều này đã được giải thích trong cuốn sách tôi đã biên soạn có tên là ĀNĀPĀNASSATI SAMĀDHI (Nhập thiền dựa trên Nhập Tức Xuất Tức Niệm, hay là Niệm Hơi Thở) trang . . . (bản dịch tiếng Anh)

Một điều đáng lưu ý đã được đề cập đến trong Kinh Phật đó là sự kiện tu luyện hành thiền chỉ nhằm đạt đến được Abhinna (nghĩa là sức mạnh thần thông) bậc cao hơn. Sức mạnh này không thể hoàn tất được nội trong cuộc sống hiện tại, đặc biệt là đối với những người chỉ mới khởi sự tu luyện trong cuộc sống hiện tại. Lý do là vì tuổi thọ tối đa của một con người không đủ để đạt được một sự phát triển chính xác lâu dài như vậy. Nói cách khác, một con người có những tiềm năng như vậy phải thuộc dạng bẩm sinh chứ không phải là chứng đắc được. Vì thế cho nên những ai đã đạt được những khả năng lạ thường đó vẫn phải tích lũy những điều căn bản để có thể đạt đến thiền chứng đó trong nhiều cuộc sống trong quá khứ. Một số người đã đạt đến thành công đó trong một số thời điểm nội trong một cuộc sống trước kia của họ. Chính vì thế họ tự động lao vào tập luyện giống như vịt lao vào vùng nước vậy.

Trước khi bàn đến lý do tại sao thực hiện được những sức mạnh thần thông đó lại chỉ là một khả năng thay vì là một chân lý, ta cần phải liệt kê ra đây những thí dụ trích từ Kinh Phật chứng tỏ ai là người đã có thể làm được như vậy ngay trên cõi đời này và những gì đã được ghi lại về những việc họ đã thực hiện được trên cõi đời.

Ví dụ đầu tiên: Ven. Cūlapanthaka

Trường hợp Trưởng lão Cūlapanthaka, ngài đã biến thành rất nhiều bản sao chính bản thân ngài và rồi lại hủy toàn bộ những bản sao đó, còn lại một mình ngài mà thôi.

Trưởng lão Cūlapanthaka có một người anh trai tên là Mahāpanthaka, Cả hai anh em đều là cháu ruột của một nhà triệu phú sinh sống tại thành phố Rajagaha. Người anh, là Mahapanthaka, đã nhận Thọ Đại Giới làm tỳ khưu lần đầu tiên và chẳng bao lâu sau đã đạt đến bậc A-la-hán, đồng thời cũng đạt được bốn bậc Vô Ngại Giải Đạo (paṭisambhida). Một thời gian sau Ngài đã giới thiệu người em của mình, là Cūlapanthaka, để cũng được nhậnThọ Đại Giới. Nhưng người em trai xem ra quá chậm chạp và thiếu thông minh vì sau khi người em được bảo cho biết phải học thuộc lòng một đoạn kệ ca ngợi những công đức của Đức Phật chỉ có bốn câu, nhưng người em đã không tài nào nhớ được ngay cả sau một thời gian kéo dài đến bốn tháng sau. Đoạn kệ đó như sau:

“Padumaṃ yathā kokanudaṃ sugandhaṃ
Pāto siyā phullamavītagandhaṃ
Añgīrasaṃ passa virocamānaṃ
Tapantamādiccamivantlikkhe.”

Tạm dịch là: Hãy nhìn lên đức Añgirasa (tức là Đức Phật) ngài trông giống như một đóa hoa sen Kokanuda (tức là hoa sen màu đỏ) với hương thơm ngọt ngào tỏa lan đang nở rộ vào buổi sáng. Luôn luôn tỏa ra mùi hương thơm say mê lòng người. Giống như mặt trời chiếu những tia nắng chói chang khắp cả một vùng trời bao la.

Nhận thấy người em của mình quá đần độn, vị trưởng lão nói với em. “Này Cūlapanthaka, chú chẳng còn hy vọng gì được ở lại trong hàng ngũ Đức Phật nữa. Ngay cả sau bốn tháng mà chú vẫn không thể thuộc nổi bốn câu kệ, thì làm sao chú có thể chu toàn được những bổn phận tỳ khưu của chú được? Mong rằng chú hãy rời khỏi nơi đây và hoàn tục đi theo con đường của chú cho xong.” Rồi ông ra lệnh trục xuất người em chậm tiến đó ra khỏi thiền viện

Nhưng chàng trai chậm tiến đó lại rất tha thiết yêu mến cuộc sống phạm hạnh. Cậu ta chẳng bao giờ muốn có ý định từ bỏ bậc tỳ khưu cả. Vào thời điểm đó Trưởng lão Mahāpanthaka đang chủ trì việc phát chẩn cứu tế cho dân chúng, ngài đang trông coi việc phân phát thực phẩm và nhân danh các tỳ khưu trong chùa mời những người dùng bữa trong thiền viện. Vào đúng ngày đó có một vị lương y tên là Jīvaka Komārabhacca, đến gặp trưởng lão và đem đến cho ngài rất nhiều thuốc thơm và hoa để dâng kính Tam Bảo và ông đã nghe Đức Phật thuyết pháp tại Cánh Rừng Xoài. Vị lương y đã hỏi về số lượng tỳ khưu hiện trụ trì tại khu rừng này. Vị trưởng lão liền trả lời là có khoảng năm trăm vị. Vị lương y liền lên tiếng muốn mời tất cả các tỳ khưu, cùng với Đức Phật dẫn đầu, đến nhà ông tham dự bữa tiệc vào ngày hôm sau.

Nhưng vị trưởng lão lại cho biết, trong thiền viện còn có một tỳ khưu nữa, ngài muốn ám chỉ người em ruột của ngài, là người rất chậm hiểu, không hy vọng gì được Đức Phật chiếu cố! Vị Lương y liền lên tiếng, “Tôi sẽ cho mời toàn bộ các vị tỳ khưu, chỉ trừ vị đó thôi.”

Tỳ khưu Cūlapanthaka vẫn đang ngồi gần đó đang lúc người anh đề cập đến tên mình và ông đã biết anh mình đã loại mình ra khỏi danh sách những người được mời đi dự tiệc. Nghe thấy vậy, ông rất buồn, vì biết rằng là anh mình lại “loại trừ” mình, rồi đi đến kết luận là mối tình huynh đệ ruột thịt đã đi đến chỗ kết thúc. Cūlapanthaka nghĩ thật chỉ uổng công theo đuổi làm tỳ khưu mà thôi, và tốt hơn là trở thành một cận sự nam và phân phát của bố thí rồi lập công đức cách này cách khác theo yêu cầu một người cận sự nam thì còn hơn. Buổi sáng ngày hôm sau người em đã rời khỏi thiền viện rất sớm, với ý định không theo đuổi cuộc sống độc thân nữa và trở thành một đạo hữu bình thường.

Đức Phật đã nhìn thấy ông ra đi, Bằng Phép Nhãn Thông ngài đã quan sát thấy ai xuất hiện trước mắt ngài và cần đến ngài trợ giúp vào ngày hôm đó và ngài còn biết được cả nơi chốn và người đó đang gặp điều gì trục trặc. Chính vì thế ngài liền thực hiện một cuộc hành thiền đi bộ tiến gần đến chiếc cổng Cūlapanthaka sẽ đi ngang qua. Nhìn thấy Đức Phật, Cūlapanthaka tiến lại gần Ngài và tỏ lòng tôn kính. Rồi sau đó Đức Phật liền hỏi ông. Nói rằng “Con đang đi đâu vào giờ này thế. Cūlapanthaka?”

“ Ôi! Tâu Đức Thế Tôn, con đã bị vị tỳ khưu là chính anh trai của mình “loại trừ” ra khỏi thiền viện, chính vì vậy mà con phải lìa khỏi tăng đoàn và trở thành một cận sự Nam”

Đức Phật nói. “Ôi Cūlapanthaka, con đã thọ Cụ Túc Giới với thầy rồi mà. Tại sao khi đã bị anh ruột “từ khước” con không đến gặp thầy? Ôi Cūlapanthaka trở thành cận sự Nam nào có ích lợi gì đâu nào? Con sẽ được chấp nhận vào cùng đoàn với thầy.”

Nói xong, Đức Thiện Thệ lấy tay đánh nhẹ lên đầu Cūlapanthaka, rồi dẫn ông đến cửa trước hương phòng ở của ngài (Gandhakuti), và nhờ phép thần thông ngài tạo một miếng vải trắng cực kỳ và đưa cho Culapanthaka, bảo rằng, “Hãy ngồi thiền quay mặt về hướng đông và lấy miếng vải này đập nhiều lần lặp đi lặp lại lên người đồng thời tụng đoạn Kinh sau, “Rajoharaṇaṃ, Rajoharaṇaṃ”(quét sạch bụi trần)”

Ngay sau đó Đức Phật liền rời khỏi ông và cùng với các tỳ khưu đi theo ngài đến nhà vị lương y Jīvaka theo lời mời của ông, Cūlapanthaka ngồi thiền tại đó và khi nhìn thấy mặt trời mọc, Ông liền lấy miếng vải phủi lên người mình nhiều lần liên tiếp và tụng rằng “Rajoharraṇaṃ, Rajoharraṇaṃ.” Chẳng bao lâu sau miếng vải lấm bẩn hết, bụi bám đem ngòm và mồ hôi ở tay ông toát ra. Điều này đã khiến ông hiểu ra một pháp là, cho dù tấm vải rất trắng tinh; mà hiện đã trở nên bẩn thỉu vì bụi bậm và do ghét trong người ông toát ra. Culapanthaka suy nghĩ, “Chao ôi, các hành luôn biến đổi biết bao nhiêu” Với ý tưởng và thực chứng(Abhisamaya) này, Cūlapanthaka tiếp tục nhập tuệ giác sâu hơn nữa, đào bới sâu hơn vào toàn thể bản chất mọi hành trong vũ trụ – bản chất hay thay đổi của chúng, dòng tuôn chảy hay độ lỏng của các hành đó và đồng thời là bản chất phi thực thể của các hành này.

Lúc đó Đức Phật đang lưu lại tại nhà vị lương y Jīvaka. Nhờ Phép Nhãn Thông Ngài nhận ra thực chứng pháp bước một của Cūlapanthaka, Ngài phát chiếu ra một luồng sáng, một luồng sáng rực rỡ trước mặt Cūlapanthaka, khiến Cūlapanthaka thấy Đức Phật đang xuất hiện ngay trước mặt ông, ra vẻ như Ngài đang ngồi thiền ngay truớc mặt Cūlapanthaka. Ngay lúc ấy Đức Phật lên tiếng “Ôi Cūlapanthaka, xin đừng nghĩ là trong thân xác con có bụi bậm bẩn thỉu đã làm cho tấm vải nhơ bẩn và bụi bậm. Ngay trong tâm của con vẫn còn một lượng bụi bẩn tham dục, sân hận, và si mê tồn tại. Hãy quét sạch ra khỏi tâm của con đi.” Nói đoạn Đức Phật Ngài thốt lên những kệ sau đây:

“Rāgo rajo. na ca pana reṇu vuccati;
Rāgassetaṇ adhivacanaṃ rajoti;
Etam rajaṃ vippajahitva bhikkhavo
Viharanti te vigatarajassa sāsane”

Doso rajo, na ca pana reṇu vuccati;
Dosassetaṃ odhivacanaṃ rajoti;
Etam rajaṃ vippajahitva bhikkhavo
Viharanti te vigatarajassa sāsane

Mohso rajna ca pana reṇu vuccati;
Mohassetaṃ adhivacanaṃ rajoti;
Etaṃ rajaṃ vippajahitva bhikkhavo
Viharanti te vigatarajassa sāsane

Chính tham dục là bụi bẩn; [3] chẳng phải những hạt bụi nhỏ rác rến đâu (thường được gọi như vậy). Từ “Bụi Bậm” có nghĩa là “Tham Dục” Một tỳ khưu đã loại bỏ luôn được tham dục, thì xứng được lưu lại trong tôn giáo của Đức Phật vì chính Ngài cũng đã loại bỏ luôn được thứ tham dục đó.”

(đoạn kệ thứ hai và đoạn thứ ba. các từ “sân hận” và “si mê” được thay vào chữ “tham dục” ý nghĩa còn lại giống câu đầu tiên ở trên)

Sau khi Đức Phật thốt lên những kệ trên thì tỳ khưu Cūulapanthaka đạt đến bậc A-la-hán, đồng thời với Tứ Đạt Thông , Kinh Phật và toàn bộ Tam Tạng Kinh có nghĩa là ba bộ Kinh Phật. Điều này còn cho thấy ngay ở trên đời này, ngài tỳ khưu Cūlapanthaka không cần phải học Kinh Phật nữa. Tuệ giác đến với ngài một cách hết sức tự nhiên ngay vào lúc ngài đạt đến được Tuệ phân tích

Những Chi Tiết Thiếu Nhất Quán

Tuy nhiên, có sự thiếu nhất quán nơi một số chi tiết trong cả hai nguồn Kinh Phật sau đây. Bài tường thuật vừa nêu trên được trích dịch từ tác phẩm Dhammapadạtthakathā đề cập đến chuyện kể về tỳ khưu Cūlapanthaka. Trong một nguồn khác, theo tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) đoạn hai, trang 220. Kể lại rằng sau khi Cūlapanthaka đã bị chính người anh ruột của mình “khai trừ” khỏi thiền viện, Cūlapanthaka cho rằng mình chẳng còn hy vọng gì tham gia tổ chức tôn giáo của Đức Phật. Ông rất buồn rầu và đứng khóc ròng ngay ngoài cổng thiền viện. Bằng Phép Nhãn Thông Đức Phật đã đến gặp ông, hỏi xem tại sao ông lại khóc ròng như vậy. Sau khi được kể lại lý do tại sao ông lại than vãn thảm thiết đến như vậy, Đức Phật đã an ủi ông, nói rằng, “Chưa bao giờ có người nào được gọi là đồ vô vọng chỉ vì không thể nhớ được một bài kệ. Chính vì thế không nên than vãn buồn phiền làm chi.” Nói đoạn, ngài dẫn Cūlapanthaka đến Khu Rừng Xoài và qua phép thần thông, Đức Phật đã tạo ra cho ông ta một miếng vải trắng tinh. Đoạn văn viết bằng tiếng Pali như sau: Iddhiyāva pilotikakhandaṃ abhinimmitvā adāsi.”

Cũng ngay khi Cūlapanthaka nhận ra miếng vải trắng trở nên bẩn vì những cú đánh liên tiếp do chính tay ông, tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) đã bàn đến phần này chi tiết hơn như sau:

Đang khi ông ngồi tụng đoạn Kinh “Rajoharaṇaṃ, Rajoharaṇaṃ. Ông đã dùng tay mình đập miếng vải trắng tinh Đức Phật giao cho ông lên thân mình, tấm vải đã trở nên đen ngòm. Điều này đã khiến ông nhận ra chân lý cho rằng miếng vải trắng tinh đó, chẳng có vết đen dơ bẩn nào trên đó cả; nhưng đến giờ lại biến màu và trở nên bẩn thỉu vì đã đụng đến thân xác ông. Chính thân xác đó có nguồn mọi sự bẩn thỉu. Điều này, theo ngôn từ Phật giáo, gọi là Paṭikulasaññā (nghĩa là tưởng, hay thực chứng được pháp ghê tởm)Anicasaññā (Thực chứng pháp vô thường) với hai tuệ giác này làm căn cứ, ông đã tăng cường được sức mạnh bằng cách đem áp dụng vào Ngũ Uẩn có nghĩa là chính tâm và thân xác ông. Cho đến khi tuệ giác được đào sâu đúng mức, điều này được gọi là Anulomañāṇa rất gần gũi với điều được gọi là Gotarabhūñāṇa, nằm trên ranh giới phân chia tâm của người phàm tục khỏi những vị Thánh thinh văn Giác. Điều này hàm chứa một sự thật là ông đã gần đạt đến được Thánh Đạo (Magga) và thánh Quả (Phala). Chính vào thời điểm này Đức Phật đã thốt lên ba bài kệ được đề cập đến ở trên. Tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) đã mô tả giây phút cao điểm nhất trong biến cố đầy xúc động này như sau:

“Vào lúc kết thúc mấy kệ trên, tỳ khưu Cūlapanthaka đã có trong tay Chín pháp siêu thế, cộng với tứ tuệ phân tích và sáu Phép Thần Thông (Abhiññā)

Điều này có nghĩa là Culapanthaka đã cùng một lúc đạt đến được Bậc A-la-hán, tứ tuệ phân tích và Sáu Phép Thần Thông (Abhiññā)

Lúc này ta quay trở lại Vùng Rừng Xoài, tại đó lương y Jīvaka đang sửa soạn thiết đãi Đức Phật và Chư Vị tỳ khưu đi theo. Jīvaka đang sửa soạn thực hiện nghi thức dâng nước cho Đức Phật rửa tay thì Ngài ngăn ông lại, và đóng nắp Bát Khất Thực lại Ngài lên tiếng nói.

“Không còn một vị tỳ khưu nào đang lưu lại Thiền viện hay sao?”

“Dạ thưa Đấng Thế Tôn, vào lúc này chẳng còn vị tỳ khưu nào lưu lại tại thiền viện nữa đâu.”

“Ôi Ngài Jīvaka thân mến, chắc chắc vẫn còn một vị nữa” Đức Phật khẳng định.

Nghe Đức Phật nói như vậy, Lương Y Jīvaka liền cử một trong số mấy người hầu chạy đến thiền viện ngay tức khắc để xem còn có vị tỳ khưu nào còn sót lại thiền viện nữa hay không.

Ngay lúc đó Cūlapanthaka tự nhủ. “Anh tôi đã nói chẳng còn một vị tỳ khưu nào sót lại thiền viện cả. Tôi sẽ chứng tỏ cho anh thấy vẫn còn khối tỳ khưu tại đó” Sau đó thông qua Phép Thần Thông Cūlapanthaka đã tạo ra một ngàn tỳ khưu tại Thiền Viện, một số đang may y cà sa, một số khác đang nhuộm, trong khi đó một số khác đang tụng Kinh .

Nhìn thấy vậy, tên nô tỳ liền chạy vội về trình lại những gì hắn được chứng kiến tại khu Rừng Xoài, nói rằng: “ Dạ thưa ngài, có rất nhiều tỳ khưu còn đang ở trong khu Rừng Xoài.”

Nghe thấy điều này, Đức Phật liền bảo người đó quay trở lại và báo cho các vị tỳ khưu đó là Đức Phật muốn gặp một vị tỳ khưu có tên là Cūlapanthaka.

Nhưng khi tên nô tỳ lại báo đó chỉ là bản sao các tỳ khưu giống hệt như nhau vì khi hắn báo cho họ biết ý định của Đức Phật, thì đồng loạt tất cả các vị tỳ khưu đều trả lời : “Tôi chính là tỳ khưu Cūlapanthaka; tỳ khưu Cūlapanthaka chính là tôi đây.”

Khi tên nô tỳ của Jivaka quay trở về nhà một lần nữa báo cho Đức Phật hắn không thể phân biệt được người nào là tỳ khưu Cūlapanthaka, Đức Phật liền bảo hắn “Hãy quay trở lại ngay và lần này hãy chú ý nhìn xem ai là người trả lời đầu tiên “Tôi tên là Cūlapanthaka” hãy lập tức thỉnh ngay vị tỳ khưu đó và rồi tất cả các vị khác sẽ biến mất ngay tức khắc.”

Tên nô tỳ của Lương Y Jīvaka đã thực hiện y lời Đức Phật dạy và đã thành công dẫn về trình cho Đức Phật vị tỳ khưu tên là Cūlapanthaka.

Chuyện kể trên được trích trong tập Chú Giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada). Tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) mô tả phần vừa rồi với những chi tiết hơi khác một chút như sau:

“Khi người hầu của Jīvaka quay trở lại và báo cho Đức Phật: tại thiền viện còn có rất nhiều vị tỳ khưu, khiến ông ta không thể nào biết được vị nào là tỳ khưu Cūlapanthaka, Đức Phật truyền cho người hầu đó hãy quay lại thiền viện ngay nói rằng, “Nếu ông gặp bất kỳ vị tỳ khưu đầu tiên nào, hãy thỉnh ngay vị đó và nói, Đức Phật muốn tôi đưa ngài đến trình diện ngài ngay tức khắc” Người hầu đã thực hiện y như lời Đức Phật ra lệnh. Ngay lúc đó, toàn bộ những tỳ khưu cùng ứng thân, và các bản sao tỳ khưu Cūlapanthaka liền tan biến hết. Tỳ khưu nói với người đó là hãy về trước đi. Trong khi tỳ khưu theo sau tên người hầu, đang khi người hầu quay trở về nhà tại khu Rừng xoài, và còn thực hiện một số việc như rửa mặt mũi chân tay, thì tỳ khưu Cūlapanthaka đã có mặt tại khu Rừng Xoài trước người đó và đã đến ngồi vào đúng chỗ dành riêng cho ngài.

Ví Dụ Thứ Hai:

2a. Từ Một Tạo Ra Nhiều Vật, Và Ngược Lại

Trong tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) đoạn thứ hai trang 243, Trưởng lão Buddhaghosa đã kể lại biến cố sau đây làm ví dụ cho phép lạ (thần thông) nêu trên:

Vào một dịp lễ Đặt Bát Hội tổ chức tại thành phố Rājagaha, có khoảng năm trăm cô gái mỗi người đều mang Bánh Trung Thu (Candapuva) đứng dọc theo đường phố để đặt bát cho các vị tỳ kheo. Họ đã gặp Đức Phật nhưng không nghĩ ra phải dâng cho ngài điều gì. Khi họ thấy Trưởng lão Ca Diếp (Kassapa) đang đi theo Đức Phật từ xa xa, một ý nghĩ nổi lên trong đầu và họ nói với nhau, “Kìa có cả ngài Trưởng lão của chúng ta cũng đi theo Đức Phật. Chúng ta sẽ dâng cho ngài toàn bộ số bánh chúng ta mang theo đi” Rồi họ đã dâng cho ngài Trưởng lão Ca Diếp (Kassapa), ngài đã nhận của bố thí chỉ bằng chiếc bát khất thực của ngài. Ngài đã biến chiếc bát đó có thể đựng hết năm trăm chiếc bánh các cô gái biếu tặng. Đoạn văn Pali kể lại vụ việc viết như sau: Thero pattaṃ nīharitvā sabbaṃ ekapattapūra-mattaṃ akāsi. Sau đó ngài trưởng lão đã dâng tô khất thực đựng đầy năm trăm chiếc bánh của các cô gái biếu tặng cho Đức Phật, đang ngồi chờ ngài ở một nơi nào đó.

Đây là bài tường thuật kể lại trong tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga). Tôi đã cố gắng tìm kiếm thêm một số chi tiết nữa mô tả lại sự kiện này trong nhiều nguồn văn bản khác nữa, nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm thấy bất kỳ một nguồn xác thực nào khác. Tuy nhiên, tôi tin chắc phải có một vài chuyện kể được ghi lại đâu đó trong Kinh Phật hay trong một vài đoạn sách nào đó. Xét cho cùng, biến cố đó cũng đã cho chúng ta biết một sự kiện là một vị A-la-hán đã đạt đến được sáu Phép Thần Thông (Abhiññā)) hay có được những sức mạnh siêu phàm nếu ngài muốn, ngài cũng có thể giảm thiểu khối lượng đồ vật mà không ảnh hưởng đến chất lương cũng như hương vị của những đồ vật đó. Như vậy Trưởng lão Đại Đức Ca Diếp (Kassapa) đã thực hiện được điều đó.

Phép lạ (thần thông) Ngược Lại

Giờ đây, ta có thể rút ra được một hệ luận tất nhiên liên quan đến phép lạ (thần thông) vừa kể trên đó là, nếu đã có thể biến những vật có khối lượng lớn thành nhỏ, ngược lại – biến những vật nhỏ hay số lượng ít thành nhiều thì cũng là việc thường tình và cũng có thể thực hiện được dễ dàng. Một ví dụ thuộc loại này được kể lại trong tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) như sau:

Một lần kia ngài Trưởng lão Ca Diếp (Kassapa) nhập thiền và đạt đến mức siêu phàm (Nirodhasamāpatti) (có nghĩa là mức độ thiền diệt hay chấm dứt) trong suốt bảy ngày, trong bảy ngày đó ngài rơi vào tình trạng quên lãng thế giới bên ngoài mà chỉ hưởng nguồn an hòa nội tâm và hạnh phúc không cần dùng bất kỳ thức ăn hay ngủ nghê gì cả. Đến ngày thứ tám ngài xuất và thóat ra khỏi thiền diệt (samāpatti). Ngài liền ước ao thực hiện đôi điều gì đó để giúp đỡ một gia đình nghèo, biết rằng của bố thí dành cho ngài vào ngày hôm đó sẽ đem lại rất nhiều công phúc cho người nào thực hiện bố thí, nghĩ vậy ngài liền đến một túp lều trong đó có một gia đình rất nghèo đang sinh sống. Trưởng gia đình là một người đàn ông nghèo khổ tên là Kālavaḷiya và ngài đứng ngay trước cửa chờ được bố thí. Người vợ nhìn thấy vị trưởng lão liền cố gắng tìm cách bố thí cho ngài trưởng lão một tô cháo hoa chẳng có mùi vị gì cả, một loại cháo có chất lượng soàng nhất. Nàng vừa mới sửa soạn tô cháo này cho chồng, nhưng rất hoan hỷ dâng cho ngài trưởng lão xuất phát từ lòng tin chân tình và hân hoan. Vị trưởng lão nhận được tô cháo liền đem đến dâng cho Đức Thế Tôn, ngài đã dùng phép thần thông và sức mạnh siêu phàm của mình để nhân lên gấp bội cả về khối lượng và chất lượng tô cháo đó, đủ để nuôi sống một số lượng tỳ khưu rất lớn đang tụ tập tại thiền viện ngay lúc đó. Đoạn văn viết bằng tiếng Pali mô tả biến cố này như sau: Thero taṃ gahetvā Bhagavato hatthe ṭhapesi, Bhagavā mahabhikkusanghassa pahonakaṃ katvā adhiṭṭhasi ekapattena ābhatā sabbesaṃ pahosi. Còn đối với người nghèo khổ Kālavaḷiya, chúng ta nghe kể lại rằng ông đã được nhà vua phong làm một nhà triệu phú trong thành phố vào ngày thứ bảy sau cuộc bố thí cho vị trưởng lão.

2b. Biến thức ăn dở thành ngon; lấy nước sông biến thành bánh kem tuyệt vời.

Ví dụ về phép lạ (thần thông) này cũng được ghi lại trong tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) như sau:

Có một lần kia, Trưởng lão Đại Đức Mahā-anula đã chứng kiến nhiều chư vị tỳ khưu sau cuộc khất thực trở về chỉ nhận được một ít thực phẩm nghèo nàn, vô vị và chẳng ngon lành chút nào và họ đang ngồi dùng bữa bên bờ sông tại quần đảo Sri Lanka [4]. Quá mủi lòng ngài đã quyết định biến nước sông ngay bên cạnh các vị tỳ khưu trở thành Sappimaṇḍa có nghĩa là một loại kem bơ ngon tuyệt trần, một loại sữa trâu hảo hạng tuyệt trần. [5] vị trưởng lão liền ra hiệu cho các vị Sa-di (Sāmaṇera) báo rằng nước sông đã biến thành Sappimaṇḍa. Biết được điều đó vị Sa-di đã múc những ly sữa từ dòng sông, nước sông đã biến một loại thực phẩm tuyệt vời dâng lên cho các vị tỳ khưu. Họ đã thưởng thức và trộn vào cơm của họ đi khất thực được rồi dùng một cách ngon lành.

Tuy nhiên, không có phép lạ (thần thông) nào được thực hiện ngược lại với phép lạ (thần thông) này. Biến đồ ăn ngon trở thành không ngon cả. Bài tường thuật trên chưa tìm thấy được trong bất kỳ một bản văn nào khác. Tuy nhiên tôi chỉ muốn cung cấp tư liệu một ví dụ điển hình về quyền lực kỳ diệu thuộc loại này.

3. Thực hiện phép lạ (thần thông) Āvibhāva nghĩa là tạo ra ánh sáng từ bóng tối, và đem ra ánh sáng những gì đang bị dấu kín.

Liên quan đến phép thần thông loại này có giai thoại được kể lại rằng có một vị tỳ khưu kia, sau khi thoát khỏi Thiền Định Jhana (nghĩa là thiền bậc bốn) ngài đã quyết tâm thực hiện một phép lạ (thần thông) bằng cách tụng câu thần chú sau đây: “Mong rằng chỗ tối tăm được tràn đầy ánh sáng” và “Mong rằng những nơi bị che dấu được phơi bày ra trước ánh sáng cho nhiều người được thấy.” Sau đó mọi sự đã diễn ra y như quyết tâm của ngài trưởng lão; ngài có thể nhìn thấy bất kỳ ai cũng như bất kỳ điều gì từ xa và những người ở xa cũng có thể nhìn thấy người nếu họ muốn làm như vậy.

Trưởng lão Buddhaghosa tác giả Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) đã kể lại chính Đức Phật là một ví dụ điển hình thực hiện phép lạ (thần thông) này như sau:

Một lần kia, có một người phụ nữ tên là Cūlasubhadda, đang sinh sống trong thành phố Sāketa đã mời Đức Phật và các chư vị tỳ khưu đi theo đến dùng một bữa tiệc tại tư gia của bà vào ngày hôm sau. Lúc đó Đức Phật đang có mặt tại Khu Rừng Kỳ Viên (Jeta), trong thành phố Sāvatthi, cách đó vào khoảng bảy yojana (khoảng 112 km.). Người ta kể lại rằng Đức Phật và khoảng năm trăm chư vị tỳ khưu đi theo ngài đã bay trên không đến thành phố Sāketa và đến lưu lại tại các phòng Kuṭis dành riêng cho từng vị với mái hình chóp do ngài Thiên Chủ Vissukamma, một kỹ sư thiên cung tạo ra, đang khi các phòng Kuṭis (chỗ ở có hình chóp) đang bay từ Sāvatthi đến Sāketa. Đức Phật đã thực hiện một phép lạ (thần thông) nhãn tiền khiến cho cư dân trong hai thành phố đều có thể nhìn thấy nhau, trong khi đó các căn phòng hình chóp từ từ hạ xuống ngay chính trung tâm thành phố, cùng lúc đó Đức Phật cũng cho các cư dân trong thành phố nhìn thấy cõi địa ngục- phía dưới một nơi gọi là A-tỳ-địa ngục (Avīci) - Đó là cõi địa ngục tận cùng sâu thẳm. Ngài cũng cho họ thấy cõi nhàn cảnh tại một nơi gọi là Cõi Phạm Thiên. Chính Đức Phật đã cho họ nhìn thấy cùng một lúc cảnh Địa ngục và cõi thiên cung nhờ vào phép thần thông của ngài và cư dân của cả hai thành phố đều nhìn thấy.

Đây là toàn bộ những gì ghi lại trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga). Tuy nhiên, trong tập Chú Giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada) còn đưa thêm nhiều chi tiết khác nữa, cùng với một số khác biệt nhỏ như khoảng cách giữa hai thành phố được cho là vào khoảng bảy yojana, lại được ghi lại trong Pháp Cú Kinh (Dhammapada) là 120 yojana (tức vào khoảng hai ngàn cây số) thành phố gọi là Sāketa, nơi người phụ nữ Cūlasubhadda cư ngụ, lại được Pháp Cú Kinh (Dhammapada) gọi là Uggaha.

Còn có thêm một tiết mục nhiều chi tiết hơn được tìm thấy trong Pháp Cú Kinh (Dhammapada) cho rằng người phụ nữ Cūlasubhadda không tự mình trực tiếp đến mời Đức Phật. Nàng cũng chẳng sai người nào đến gặp Ngài như là người được nàng ủy nhiệm cho. Thay vào đó nàng đã trèo lên ngọn tháp cao nhất trong tòa lâu đài của nàng để tỏ lòng tôn kính Đấng Thế Tôn bằng năm cách tỏ lòng tôn kính (nghĩa là nàng đã hai lần phủ phục đầu gối chạm đất, hai lần lấy khuỷu tay và một lần chạm trán xuống sàn nhà) nàng đã dâng nước thơm cho ngài, cộng với hoa và nhang đồng thời có ý định trong tâm, nói rằng “Nhân tiện tôi sẽ mời Đức thế tôn, cùng với các vị tỳ khưu đi theo, đến dùng bữa sáng với tôi vào ngày hôm sau, mong rằng Đức Thế Tôn thông qua dấu hiệu từ xa của tôi thông báo đến ngài lời mời này.” Như vậy sau khi nói trong tâm như vậy nàng đã tung lên trên trời bảy bó hoa jasmine.

Đang khi nàng Subhaddā thực hiện lời mời Đức Phật trong thâm tâm như vậy, thì Đức Thế Tôn còn đang thuyết pháp một bài cho thính giả trong khu Rừng jeta. Người ta kể lại rằng những cành hoa người phụ nữ Subhaddā tung lên trời đã bay tới khu Rừng Kỳ Viên (Jeta), rồi họp thành một bức Trướng kết lại bằng hoa treo lơ lửng phía trên đầu Đức Phật. Nhà Triệu Phú Anāthapiṇḍika cũng đang có mặt nghe Đức Phật thuyết pháp. Vào cuối bài giảng ông đã mời Đức Phật và các vị tỳ khưu đến dùng bữa tại nhà ông vào ngày hôm sau. Nhưng Đức Phật cho biết, “Ôi chủ gia nhân, tôi đã nhận một lời mời dùng bữa vào ngày mai rồi.” Hơi bối rối, nhà triệu phú liền thưa, “Nhưng chưa có người nào đến trước tôi để mời ngài cả, Ôi Đức Thế Tôn, thế ngài đã nhận lời mời của ai vậy?” Và sau đó Đức Phật đã kể lại cho ông nghe người phụ nữ Cūlasubhaddā đã mời ngài từ xa như thế nào và ngài đã nhận lời mời đó cũng bằng một cách như vậy.

Nhiều chi tiết khác cũng được khẳng định trong tập Chú Giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada) như sau:

Sau khi Đức Phật đã chấp nhận lời mời của người phụ nữ Cūlasubhaddā, thì Thiên Chủ (Sakka) là thủ lãnh các vị thần, biết được tin tức đó, liền ra lệnh cho Vissukamma, là vị kỹ sư thiên cung, thực hiện ngay năm trăm chỗ ở và dâng cho Đức Thế Tôn cùng các chư vị tỳ khưu đến thành phố Uggaha vào ngày hôm sau. Ngài Vissukamma này đã thực hiện công việc được giao và đứng chờ tại cổng thành dẫn đến khu Rừng Kỳ Viên (Jeta). Rồi sau đó Đức Phật cùng với năm trăm vị tỳ khưu bậc thánh đi theo đã ngồi vào chỗ ở mái cong đó và ngay sau đó họ đã được dẫn đến thành phố Uggaha bằng cách bay trên không.

Tại Uggaha, ngài triệu phú Ugga, nhìn về phía người phụ nữ Cūlasuddhaddā đã chỉ cho ông thấy và thấy được bằng cách nào Đức Phật cùng với phép thần thông của ngài đã xuất hiện trong vinh quang và vị này hết sức là cảm kích. Ông ta đã sấp mình tôn thờ Đức Thế Tôn cùng các vị tỳ khưu đi tháp tùng ngài bằng cách dâng hoa và nhiều của bố thí sau đó lại dọn cho các ngài một bữa tiệc. Đồng thời ông còn tổ chức một cuộc đại thí cho dân chúng kéo dài trong bảy ngày liên tiếp.

Vào lúc này ta hãy gác sang một bên khả năng hay sự xác thực của các phép lạ (thần thông) siêu phàm đó. Chúng ta có thế sắp xếp các phép lạ (thần thông) đó thành các loại như sau:

1. Phép lạ (thần thông) thu ngắn khoảng cách, làm cho những người cách nhau cả trăm cây số cũng có thể nhìn thấy nhau.

2. Phép lạ (thần thông) được nâng bổng lên trên không và di chuyển trong đó.

3. Phép lạ (thần thông) tiết lộ các nhàn cảnh và khổ cảnh, Làm cho các người trên trần gian này cũng có thể nhìn thấy.

4. Vị kiến trúc sư thiên cung Vissukamma lại có thể tạo ra được chỗ ở cho chúng sanh cư ngụ trong một thời gian nhất định.(những chỗ ở được tạo dựng lên như vậy, ngoại trừ những cỡ kích bình thường chỉ có thể tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi tạm thời mà thôi. Chúng không thể tồn tại vĩnh cửu được)

Ngoài những Phép lạ (thần thông) mở màn (Āvibhāva) đã bàn đến ở trên, Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) cũng đã kể lại một phép lạ (thần thông) Yamakapāṭihāriya (phép lạ (thần thông) song do chính Đức Phật thực hiện. Sau đây là một bài tường thuật được kể lại trong bản văn đó.

Đức Phật Đến Thăm Cõi Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa)

Đức Thế Tôn, sau khi đã thực hiện phép lạ (thần thông) Yamakapāṭihāriya (phép lạ (thần thông) một người có mặt ở hai nơi cùng một lúc) để giải thoát cho 84.000 sinh linh thoát khỏi tà kiến phược, ngài liền nghĩ tới điều Chư phật trước kia đã làm sau khi Chư vị đã thực hiện được những phép lạ (thần thông) tương tự như ngài đã làm. Ngay sau đó thông qua Tuệ giác nhiệm màu ngài biết được Chư vị cũng đã đến thăm cõi Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa). Chính vì thế ngài đã đặt chân trái trên mặt đất còn chân phải đặt trên đỉnh ngọn Yugandhara. Rồi ngài tiến một bước lên phía trước, đặt chân trái xa hơn một chút lên đỉnh ngọn núi Sineru (nghĩa là ngọn Hymalaya). Chính bằng cách này Đức Phật đã đặt chân lên đến cõi Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa). Ngài đã trải qua mùa An Cư Kiết Hạ tại đó. – Ngay trên ngai vàng của Thần Indra cai quản cõi Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa) tọa lạc ngay trên đỉnh núi Sineru. Trong thời gian đó ngài đã thuyết pháp Tạng Vi Diệu Pháp cho một đoàn người gồm cả trăm ngàn cõi Thiên vũ trụ. Đoạn văn tiếng Pali diễn tả phần này như sau: Paṇṭḍukambalasilātale vassaṃ upagantvā sannipntitānaṃ dassasahassacakkavāḷadevatānam ādito paṭṭhāya abhidhammakathaṃ ārabhi.

Trong thời gian đi khất thực, Đức Phật đã tạo ra một thân Phật khác, có thể gọi là “hình bóng”Phật, giống như một thân thể cõi trời hay là một Hóa tâm thông (manomayakaya). Chính ‘hình bóng’ Phật này đã thực hiện công việc thuyết pháp (Dhammadesanā) một cách liên tục ngay cả lúc Đức Phật thực sự vắng mặt, như lúc ngài phải vệ sinh răng miệng với bàn chải đánh răng (tiếng Pali gọi là Nāgalatā) trước khi ngài dùng nước xúc miệng tại hồ ở độ cao trên núi gọi là Anotāta. Hiện nay vẫn còn tìm thấy chiếc hồ này trên dẫy Himalaya và người ta tin là hồ này có liên quan đến Đức Phật trong giai đoạn này. Sau đó ngài tiến hành đi khất thực tại những nơi có cư dân Uttarakuru sinh sống trước khi trở lại dùng bữa tại một nơi gần hồ Anotāta đã đề cập đến ở trên.

Cũng chính nơi đây Trưởng Lo Xá-lợi Phật (Sārīputta) đã đến để tỏ lòng tôn kính Đức Phật mỗi ngày. Rồi sau đó Đức Phật đã kể lại cho ngài khoảng cách bao xa ngài (kể cả “bóng”Phật) đã thực hiện những bài thuyết pháp. Sau đó ngài quay trở lại tiếp tục thuyết pháp tại nơi ‘bóng”Phật đã bỏ đi. Qui trình này diễn ra liên tục. Trong thời gian này người ta kể lại nhờ nghe Đức Phật thuyết pháp tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) mà một số lớn những vị chư thiên tổng số lên đến 800 triệu cả thảy được phước lành liễu ngộ Phật Pháp.

Vào lúc này có một đám đông đang xúm lại địa điểm là nơi Đức Phật đã thực hiện phép lạ (thần thông) hiện diện tại hai nơi. Trên một khoảng rộng độ 22 yojana. Toàn bộ họ đồng một lòng quyết định nhất quyết không quay trở về nhà trước khi nhìn thấy được Đức Phật quay trở lại cõi trần gian này. Chính vì mục tiêu đó họ đóng trại chung quanh vùng phụ cận. Trong suốt một thời gian toàn bộ số người đó được Cūla Anāthapiṇḍika, em trai của một người giàu có cung cấp cho đồ ăn và những vật dụng cần thiết.

Trưởng Lão Mogallana Đã Tiến Vào Lòng Đất Như Thế Nào

Vào lúc này đoàn người đang nóng lòng chờ đợi được xem Đức Phật đang ở đâu. Họ đã yêu cầu Ngài Trưởng Lão Anuruddha tìm cho họ. Trưởng Lão đã nhập thiền ĀlokaKasiṇa có nghĩa là nhập thiền ánh sáng khiến cho ngài có khả năng nhìn thấy Đức Thế Tôn đang nhập An Cư Kiết Hạ ở đâu, đang khi ngài lưu lại trên cõi Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa). Sau khi được Đức Phật cho biết địa điểm chính xác ngài đang lưu lại trên cõi Tāvatiaṃsa. Họ liền quay trở lại gặp Trưởng Lão Moggallāna và yêu cầu ngài làm thế nào họ gặp được Đức Phật để tỏ lòng tôn kính ngài. Trước hoàn cảnh như vậy, ngay trước sự hiện diện của đoàn người đông đảo, vị Trưởng Lão lao xuống lòng đất và nổi lên trên đỉnh ngọn núi Sineru rồi ngồi ngay dưới chân Đức Phật và trình Đức Phật biết hậu quả gì sẽ xảy ra cho đám đông đang qui tụ lại muốn gặp được Đức Phật trước khi họ chịu quay trở về nhà.

Đức Phật liền hỏi vị trưởng lão nói rằng, “Ôi ngài Moggallāna, thế người anh cả Xá-lợi Phật (Sāriputta) hiện đang ở đâu?” Sau khi vị trưởng lão trả lời Xá-Lợi-Phất (Sāriputta) lúc này đang lưu lại trong thành phố Sañkassa, Đức Phật liền bảo ông. “Hãy truyền cho dân chúng những ai muốn gặp thầy hãy đến thành phố Sañkassa. Th?y sẽ có mặt tại thành phố đó vào ngày mai, nhằm ngày Trai giới (Uposatha) và là ngày Tự tứ (Mahāpavāraṇā)”

Đại Trưởng Lão Moggallana quay trở lại cõi trần gian cùng một cách ngài đã nhập cõi Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa). Trên đường quay trở về và ra đi cùng một cách giống nhau. Vị trưởng lão cũng đã thực hiện phép lạ (thần thông) Āvibhāva có nghĩa là phép lạ (thần thông) mở ra, khiến cho toàn bộ những người hiện diện đều nhìn thấy ngài ra đi và trở lại như thế nào. [6] Sau khi đã quay trở lại cõi trái đất, ngài liền thông báo cho dân chúng đang nóng lòng chờ đợi tin vui đó và cho họ biết là phải tiến hành cuộc hành trình ngay sau kết thúc bữa ăn sáng. Ngài thông báo cho họ biết thành phố Sañkassa cũng không cách xa đây là bao.

Đức Phật Từ Cõi Tam Thập Tam Thiên (Tavatimsa) Bước Xuống Trái Đất

Đức Phật liền truyền cho Thiên Chủ (Sakka) vua các vị chư thiên rằng, “ Ôi Thiên Chủ, ta sẽ quay trở lại cõi trái đất vào ngày mai.” Nghe thấy vậy Thiên Chủ (Sakka) liền lệnh cho Vissukamma, là vị kiến trúc thiên cung mà rằng, “ Đức Thế Tôn sẽ giáng lâm vào ngày mai, xin ngài hãy tạo ba cây thang, một bằng vàng, một bằng bạc, và cây còn lại bằng đã quý” Và như vậy là vị kiến trúc thiên cung cứ y lệnh thực hiện.

Buổi sáng ngày hôm sau Đức Phật đứng trên đỉnh núi Sineru, Đưa mắt nhìn về hướng đông trái đất. Ngay lúc đó hàng ngàn hàng vạn vũ trụ tự mở ra, như thể toàn vũ trụ trở thành một kích cỡ giống nhau. Điều này diễn ra ba lần như vậy mỗi khi Đức Thế Tôn hướng mắt nhìn về ba hướng còn lại, ở mỗi hướng toàn thể những vũ trụ đều gặp gỡ lẫn nhau khiến cho Đức Phật có dịp chiêm ngưỡng tất cả những gì ngài muốn. Nhìn xuống trái đất trở lại, ngài lại nhìn thấy các cảnh khổ là nơi tận cùng địa ngục. Khi hướng mắt nhìn lên ngài nhìn thấy cõi Akaniṭṭha, là cõi cao nhất nơi nhàn cảnh vô tận. Chính vì thế ngày hôm đó được đặt tên là “ngày khai mở toàn vũ trụ” Trong ngày đó các cư dân dưới đất và thần thánh trên trời có thể tận mắt nhìn ngắm nhau. Hơn thế nữa như vậy con người không phải nhìn lên ngắm những cư dân thiên quốc, cũng như vậy các cư dân thiên cung cũng không phải nhìn xuống trần gian để tìm kiếm anh em bà con dưới đó. Cả hai đều tỏ ra rất vui mừng trong suốt thời gian đó. [7]

Rồi Đức Phật bước xuống cây thang bằng chuỗi đá quí ở giữa. Trong khi đó các cư dân thiên đình thuộc sáu cõi Dục giới (Kāmāvacarabhūmi) đi theo ngài qua dây thang bằng vàng, ở phía bên phải, và các cư dân Phạm Thiên (Brahma) thuộc cõi Suddhāvāsa và cõi Đại Phạm Thiên thì theo dây thang bằng bạc ở phía trái. Thiên Chủ (Sakka), chủ tướng các chư dân thiên quốc, mang theo bát khất thực và y cà sa cho Đức Phật, trong khi đó Đại Phạm Thiên mang một chiếc lọng màu trắng với luồng sáng phát ra xa tới ba Yojana. Cùng lúc đó Thiên Chủ Suyama lại mang một chiếc quạt còn Pañcasikha, là người phụ trách ca đoàn thiên quốc lại mang theo một chiếc đàn Hạc màu vàng trông giống như một trái cây Bael chín dài khoảng ba Gavuta, lúc nào cũng luôn miệng hát những lời ca ngợi Đức Phật. Người ta kể lại rằng chẳng có ai chiêm ngưỡng Đức Phật ngày hôm đó lại không có lòng ước ao trở thành một Đức Phật.

Đức Phật đã thực hiện phép lạ (thần thông) hiện hình ở hai nơi như vậy. Biến cố này được ghi lại bằng tiếng Pali như sau: Idamettha bhagavā āvibhāvapaṭihāriyam akāsi. Nhờ Phép lạ (thần thông) Pāṭihāriya hay phép lạ (thần thông) ngài thực hiện khi lìa khỏi cõi Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa) trở lại cõi trần. Những người chờ đón ngài tại thành phố Sañkassa đều có thế tận mắt chứng kiến tất cả những quang cảnh kỳ diệu đó. Những cư dân trên cõi đời này có thể chiêm ngưỡng người láng giềng nơi cõi thiên thai của mình và ngược lại.

Bài tường thuật trên đây trích từ bản văn được gọi là Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), trong khi đó trong tập Chú Giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada) còn có nhiều chi tiết tỷ mỷ hơn được mô tả rất kỹ. Tuy nhiên trong Kinh Phật chúng ta có thể tiếp cận được, lại chỉ đề cập đến một số ít chi tiết trong tác phẩm Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga) thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddakanikāya) (tập thứ 31. trang 183). Nhưng lại chỉ tường thuật về biến cố Phép lạ (thần thông) Đức Phật hiện ở hai nơi cùng một lúc (Twin Miracle) và không đả động gì đến chi tiết Đức Phật An Cư Kiết Hạ nơi cõi Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa) như thế nào, đồng thời không đả động gì đến biến cố ngài từ cõi Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa) giáng lâm ra sao. Những đoạn mô tả thêm sau này xác thực đến mức độ nào còn phải để cho các vị học giả tra cứu và giải thích cẩn thận. Mục tiêu của tác giả như đã được trình bầy ở trên, chỉ nhằm tường trình và tường trình một cách trung thực điều gì đã được khám phá theo nhiều nguồn khác nhau. Tuy nhiên, cách tốt nhất vào lúc này là nên tạm hõan đưa ra bất kỳ phê phán nào cho đến khi có nhiều nghiên cứu sâu rộng và sâu xa hơn được thực hiện.

Đối với những ai muốn tìm hiểu thêm về những gì được mô tả trong tập Chú Giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada) chúng tôi cho ghi lại những đoạn dưới đây như sau:

“Đang khi thực hiện phép lạ (thần thông) hiện diện ở hai nơi cùng một lúc, Đức Phật đã suy nghĩ “Chư phật trước ngài đã và đang thực hiện phép trên đều có nhập An Cư Kiết Hạ hay không?’ sau này ngài biết được tất cả các vị đó đều có qua An Cư Kiết Hạ tại cõi thiên đường Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa) và đã thuyết pháp Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) tại đó cho các bà mẹ của các vị đó.

Chính vì vậy đang khi thực hiện Phép lạ (thần thông) này, Đức Phật đã đặt chân phải của ngài lên đỉnh núi Yugandhara và chân còn lại ngài đặt lên một đỉnh núi Sineru. Chỉ có ba bước chân, ngài đã vượt qua một khoảng cách dài khoảng sáu trăm tám mươi ngàn Yojana. Điều này cho thấy khoảng cách giữa hai chân của ngài vẫn bình thường là điều không thích hợp, thế nên việc mô tả vẫn được tiếp tục. Trong vấn đề này bất kỳ ai suy nghĩ Đức Phật đã thực hiện một bước rất dài để vượt qua một khoảng cách to lớn đến như vậy thì đó chính là các ngọn núi đó đã di chuyển lại gần nhau để cho Ngài có thể bước qua sau đó chúng lại lui trở về vị trí cũ.

Lúc này Thiên Chủ (Sakka) vua các vị thần nhìn thấy Đức Phật thì tự nhủ trong lòng, “Đức Thế tôn sẽ An Cư Kiết Hạ giữa ngai bằng đá sẽ được trải thảm lông màu vàng (Paṇḍukambala Silā sana). Điều đó sẽ mang lại lợi ích lớn cho các cư dân thiên cung. Tuy nhiên, trong thời gian ngài lưu lại trên đó, chẳng có chư thần nào dám đụng đến ngai đá này (xuất phát từ lòng kính sợ Đức Phật). Vào lúc này, ngai này dài sáu mươi Yojana, rọng năm mươi Yajona và dài mười lăm Yojana và chỉ có mình Đức Thế Tôn ngự trên đó, toàn bộ những chỗ còn lại chẳng có ai dám đến cả.

Đức Phật đọc biết được suy nghĩ của Thiên Chủ thông qua tha tâm thông, ngài liền ném y tăng gìa lê của ngài (Sanghāṭi) lên bệ đá, y phủ kín một phần khá rộng. Thấy cử chỉ đó Thiên Chủ (Sakka) tỏ vẻ hài lòng nhìn thấy vùng y tăng gìa lê phủ kín. Đọc được ý nghĩ trong tâm Thiên Chủ (Sakka) Đức Phật thu nhỏ chỗ ngài ngồi lại chỉ bằng y cà sa của ngài phủ kín. Rồi ngài ngồi tại đó theo kiểu một vị tỳ khưu mặc y cà sa rách ngồi trên một bệ nhỏ ngài đã thu gọn lại.

Theo tập Chú giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada) đang khi Đức Phật nhập cõi Tam Thập Tam Thiên (Tavatimsa) đám đông người tụ tập lại trên cõi trần gian không thể nhìn thấy ngài đi đâu. Hình như mặt trời và mặt trăng đều biến mất khỏi vùng chân trời, chính vì thế họ than vãn nói rằng,

“Có phải đức Thế Tôn đang ngự trên núi Cittakuta hay trên núi Kailasa hay trên Yugandhara? Chúng tôi không nhìn thấy ngài, Đấng Giác Giả đâu cả, ngài là đấng tối cao trên trần gian này, là đấng vượt hơn hẳn mọi chúng sanh.”

Một số người có mặt ở đó lại than vãn, nói rằng,

“Đức Thế Tôn, đấng khôn ngoan nhất thiên hạ đang hưởng cảnh tĩnh mịch, sẽ không còn quay lại cõi đời này nữa. Chúng ta chẳng còn nhìn thấy Đấng Giác Giả bao giờ nữa. Ngài là Đấng Tối Cao trên trần gian này, là đấng vượt hơn hẳn mọi chúng sanh.”

Không còn nhìn thấy Đức Phật, dân chúng liền hỏi Trưởng lão Moggallana, nói rằng, “Đức Phật hiện giờ đang ở đâu, thưa ngài?” và thế là Trưởng lão Moggallana lại hỏi ngài Anuruddha để trả lời câu hỏi này, và câu trả lời của ngài đã được kể lại ở trên.

4. Phép lạ thứ tư:

Tirobhva: Biến bóng tối trở nên sáng chói và che khỏi tầm nhìn những gì đang phơi ra trước ánh sáng

Một vị tỳ khưu đã được phú cho phép thần thông Pāṭithāriya cần tu luyện hành thiền đến mức Thiền Bậc Bốn, như là “Sức Bật” của ngài, ta có thể gọi như vậy và quyết định bằng cách tụng câu. “mong rằng chỗ sáng biến thành tối,” hay “Mong rằng không ai nhìn thấy nơi này cả” và tức khắc nơi đó và cảnh quan đó liền diễn ra như ý nguyện của ngài.

Điều này được kể lại trong tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) tác giả Buddhaghosa đã nêu lên một câu hỏi thật thích hợp hỏi rằng: ai có khả năng thực hiện được loại phép lạ (thần thông) này. Để trả lời câu hỏi trên, ngài kể lại những phép lạ (thần thông) liên quan đến chàng trai Yasa và Trưởng lão Mahāpappina một cách ngắn gọn. Tuy nhiên tiếp theo đây tôi xin mô tả lại cả hai biến cố để hầu quí độc giả muốn biết thêm những chi tiết liên quan.

Liên Quan Đến Trưởng Lão Yasa

Theo Đại Phẩm (Mahāvagga) thuộc Tạng Luật, biến cố này xảy ra sau khi Đức Phật đã làm cho năm người sống nhờ vào của bố thí đạt đến Bậc A-la-hán. Vào buổi sáng sớm ngày mồng sáu, tháng tám, chàng trai Yasa, con trai duy nhất của một Nhà Triệu Phú trong thành phố Bārāṇasī hay còn goi là thành Ba-la-nại (Benares) đã rời khỏi nhà vào buổi đêm, và đến nơi Đức Phật đang cư ngụ. Trên đường đi chàng thanh niên luôn lẩm bẩm câu, “Nơi này quá phiền toái, nơi đây quá buồn khổ”. Lúc đó Đức Phật đang hành thiền bách bộ tại một nơi quang đãng thoáng mát. Nhìn thấy chàng trai ngài liền tạm ngưng hành thiền, và trải tọa cụ xuống đất và ngồi trên đó, khi chàng trai tiến lại gần ngài, miệng vẫn thốt lên những lời lẽ như vậy, ngài liền cho gọi chàng trai lại và nói “Nơi này chẳng phiền toái đâu, nơi này chẳng có gì buồn bã cả.” Hãy đến và ngồi xuống đây. Ta sẽ thuyết pháp cho con.” Lời nói của Đức Phật khiến cậu bé cảm động và thích thú. Cậu bỏ dép và ngồi xuống một chỗ thích hợp gần bên Đức Phật.

Sau đó, Đức Phật thuyết pháp cho cậu về nắm pháp tuần tự để được tiến triển hay là Anupubbīkathā, bắt đầu với bố thí, giới luật, cõi thiên đường, rồi đến những mối nguy do thú vui giác quan đem lại và lợi ích diệt dục là như thế nào. nhìn thấy được (qua Nhãn Thông) từ lúc đó tâm chàng trai đã dịu trở lại, trở nên linh hoạt hơn và thoát khỏi mọi triền cái, chàng trai hoàn toàn choáng ngợp trong trạng thái mê ly và ánh sáng chói chang, Đức Phật liền tiến hành giải thích cho cậu về Tứ Diệu Đế nghĩa là đau khổ là thế nào, nguyên nhân của đau khổ từ đâu mà ra, diệt được khổ và cách thức diệt khổ như thế nào. Vào cuối bài thuyết pháp chàng trai Yasa đã đạt đến Pháp Nhãn giúp giải thóat khỏi mọi vết nhơ bẩn thỉu. Thể hiện được pháp cho là “bất kỳ những gì được tạo thành sẽ đi đến chỗ bị hủy diệt.” Tâm chàng trai mở ra khi nhận được Pháp Nhãn, nên giống như một miếng vải trắng tinh sạch không một vết nhơ, sẵn sàng thấm thuốc nhuộm.

Lý do tại sao chàng trai rời khỏi nhà trong thời gian như vậy đã được kể lại trong một đoạn văn tiếng Pali như sau:

Vào thời đó trong thành phố Bārāṇasī có một chàng trai tên là Yasa, con trai của một nhà triệu phú, một thanh niên được nuôi dạy hết sức cẩn thận. Cậu được cha mẹ xây cho ba lâu đài để ở, một dành cho mùa đông, một dùng vào mùa hè, và còn một căn dùng vào mùa mưa. Lúc nào cậu cũng được các nữ tỳ chơi nhạc để tiêu khiển, chẳng có một nam tỳ nào cả. Trong suốt bốn tháng mùa mưa chàng trai đã thưởng thức mọi thú vui sắc dục trong lâu đài mùa mưa và không bao giờ rời khỏi ngôi tòa lâu đài đó để ra ngoài hay xuống phố đi đây đi đó cho khuây khỏa.

Bước ngoặt trong đời chàng trai bắt đầu xuất hiện vào một đêm kia sau khi đã tiêu khiển đủ mọi thú vui do các tỳ nữ đem lại đến choáng ngợp, chàng đã đi ngủ sớm có nghĩa là trước khi các nữ tỳ của chàng lên giường. Thế rồi, vào những canh đầu tiên trong đêm đó chàng đã thức giấc, do ánh sáng một ngọn đuốc cháy suốt đêm. Điều này khiến nổi lên một cảm nghĩ lạ lùng chàng trai chưa từng bao giờ mơ thấy trước đó. Trước mặt chàng nằm la liệt những cô gái trẻ với đủ mọi điệu bộ lẳng lơ, một số ôm đàn hạc trong tay, những cô khác ôm trống đeo ở cổ và trên ngực, nhiều cô khác đầu tóc rối bù. Một số khác miệng phun nước miếng và số còn lại nói lảm nhảm trong giấc mộng. Toàn cảnh diễn ra trước mặt chàng giống như cảnh một nghĩa trang chất đầy xác chết nằm rải rác la liệt đây đó. Chàng trai bị choáng ngợp trước cảm nghĩ mệt mỏi ảo tưởng. Khiến cho chàng phải thốt lên, “Nơi này quá phiền toái, nơi đây thật buồn khổ !”.

Trong trạng thái mệt mõi tràn ngập những thú vui nhục dục như vậy, thình lình chàng trai thức dậy sỏ dép và rời khỏi nơi đó qua cánh cửa có các vị chư thiên canh gác cẩn thận, các vị này đã giúp mở cửa cho chàng với ý nghĩ “Mong rằng việc ra đi của chàng trai theo đuổi cuộc sống vô gia cư không bị ngăn cản.” Sau đó chàng trai tiến thẳng tới cổng thành, tại đó cũng có các vị chư thiên giúp mở cổng với cùng một ý nghĩ như những chư thiên đầu tiên giúp mở cửa cho chàng.

Sau khi đã thoát ra ngoài thành, Yasa tiến thẳng tới Công Viên Con Nai tại Isipatana và cuối cùng chàng đã gặp Đức Phật, nghe bài thuyết pháp của ngài và đạt được Pháp Nhãn, như đã kể ở trên.

Từ những đoạn trích trong Kinh Pali, chúng ta còn biết thêm một số chi tiết về chàng trai như sau:

Sáng hôm sau người ta phát hiện ra chàng trai bị mất tích, khi mẹ chàng trở vào cung và không gặp được con trai ở đó, bà vội vã thông báo tin chẳng lành cho chồng. Ông liền sai người đi tìm kiếm chàng khắp nơi. Trong khi đó chàng trai đi theo chánh đạo dẫn đến thành Isipatana tại công viên con nai. Ở đó người cha vô cùng ngạc nhiên, nhận ra đôi dép của con trai, sau đó ông lần theo lối đi của chàng và tiến thẳng tới chỗ Đức Phật và con trai của ông đang ngồi đàm đạo. Đức Phật nhìn thấy nhà triệu phú từ xa, ngài suy nghĩ nên thực hiện một phép lạ (thần thông) ngăn cản hai cha con không nhìn thấy nhau vào lúc này.(đoạn văn viết bằng tiếng Pali như sau: Disvā Bhagavato etadahṅi yannūnāhaṃ tathārūpaṃ iddhābhisankhāraṃ abhisañkhāreyyaṃ yathā seṭṭhī gahapati idha nisinno idha nṅinnaṃ. Yasaṃ kulapūttaṃ na pasayyạti. Atha kho Bhavavā tathārūpaṃ iddhābhisankhāraṃ abhṅankhiresi.)

Nhìn thấy Đức Phật ngồi đó, cha chàng trai Yasa tiến lại gần ngài và hỏi xem ngài có nhìn thấy con trai của ông đến đây không.

Thế là Đức Phật đã trả lời câu hỏi của ông như sau “Hãy ngồi xuống đây cái đã, ôi ông chủ gia nhân ơi. Có lẽ, đang khi ông ngồi đây thì ông có thể nhìn thấy con trai Yasa cũng đang ở đây.” Câu trả lời của Đức Phật khiến cho Nhà Triệu Phú hài lòng, ông nghĩ có lẽ con trai ông đang ngồi ở đó. Ông có thể nhìn thấy con trai mình, cậu ta cũng đang ở quanh đây thôi. Thế rồi ông tỏ lòng tôn kính Đức Phật và ngồi đúng vào chỗ dành cho ông. Cha của Yasa ngồi ở một bên, Đức Phật liền thuyết pháp cho ông về năm pháp tuần tự giúp tiến bộ quan trọng như thế nào. (Anupubbīkatha) rồi ngài diễn giảng Tứ Điệu Đế y hệt như cách ngài đã làm cho chàng trai Yasa của ông. Vào cuối bài thuyết pháp người cha của chàng trai Yasa cũng đạt được Pháp Nhãn .

Sau khi người Cha đã đạt đến được Pháp Nhãn, Đức Phật chúc lành với một niềm tin không lay chuyển nơi Phật pháp, sau đó ông vượt qua mọi nghi ngờ nơi Tam Bảo, ông được phú cho lòng can đảm không gì lay chuyển nổi. Không nghe theo bất kỳ lời nói nào của ai liên quan đến Phật Pháp. trong ngây ngất và tin tưởng ông đã thưa với Đức Phật. “Ôi Đấng Thế Tôn, lời thầy thật là đầy sức sống, lời thầy quá ư tốt đẹp”. Bằng nhiều cách Đấng Thế Tôn đã công bố Phật Pháp, giống như người chỉ chánh đạo đối lại những gì đã bị đảo lộn, hay mở ra những gì đang còn bị tù túng, chỉ lối cho những kẻ lạc đường và thắp lên ngọn đèn nơi tối tăm để cho người sáng mắt có thể nhìn thấy bất kỳ điều gì như bình thường.

“Do vậy tôi đi đến nương nhờ đức Phật - Giáo Pháp và Tăng Già. Mong rằng Đức Thế Tôn nhận con là một cận sự nam (upāsaka) hết lòng vì đạo pháp cho đến hết đời, kể từ ngày hôm nay trở đi”.

Với lời phát biểu đầy đức tin không gì lay chuyển như vậy, Cha chàng trai Yasa đã trở thành người cận sự nam đầu tiên (upāsaka) đã đi đến nương nhờ đức Phật, giáo pháp và Tăng già.

Nhiều chi tiết nữa được kể lại trong kinh Pali như sau:

Đang khi Đức Phật còn thuyết pháp một bài về năm pháp tuần tự tạo sức mạnh tiến tới quan trọng dành cho Cha của chàng trai Yasa, ông Bố chiêm ngưỡng những lời dạy của Đức Phật một lần nữa, có thể phát triển tâm và cập nhật thâm sâu hơn vào tuệ giác. Cho đến khi ông đạt đến giác ngộ hoàn toàn và đã trở thành một vị A-la-hán, với tâm được giải thóat hoàn toàn khỏi những lậu hoặc (savas) và thụy miên phiền não trong tâm thông qua diệt dục toàn diện.

Lúc này thông qua phép Nhãn Thông, Đức Phật biết được toàn bộ tâm chàng trai Yasa đã được giải thóat khỏi mọi lậu hoặc thông qua diệt bỏ hết những tham lam phù phiếm và nhận ra được bằng cách nào chàng không thể nằm ở vị thế một cận sự nam để khỏi phải trải qua nhũng dục lạc một lần nữa. Yasa đã loại bỏ hết những ngụy trang thần thông vẫn kìm hãm chàng cho đến lúc này còn che dấu Yasa không nhìn thấy cha mình và ngược lại. Lúc này Cha Yasa có thể nhìn thấy con trai của mình, thực sự đang ngồi ngay sát bên ông từ bấy lâu nay. Chính vì thế ông nói với con trai. “Mẹ con đã đau khổ buồn thảm rất nhiều, con trai Yasa yêu quí. Xin hãy cứu mẹ con khỏi chết.” Nghe đến đây chàng trai liền ngước mắt nhìn lên Đức Phật như thể cầu khẩn ngài nói thay cho chính mình. Đức Thế Tôn hiểu ý chàng liền nói với Nhà Triệu Phú mà rằng. “Ôi chủ gia nhân, ông đang suy nghĩ gì thế? Lần đầu tiên Chàng Trai Yasa đạt được Pháp Nhãn cùng một cách như ông, với tuệ giác ở mức độ Đấng Nhập Lưu. Sau đó, cậu ta chiêm ngắm thành tích mình đã đạt được một lần nữa (đang lúc đó ta đang thuyết pháp cho ông.). Lúc này thì tâm của chàng trai Yasa đã được giải thoát khỏi mọi Lậu hoặc (savas) thông qua tận diệt hết các tham lam. Lẽ nào cậu ta lại phải trở thành một cận sự nam để lại phải qua những thú vui nhục dục như trước?”

Nhà triệu phú trả lời, “Không đời nào chuyện đó diễn ra, ôi Đức Thế Tôn. Một khi tâm của Yasa đã được giải thoát khỏi mọi lậu hoặc (savas) thông qua tận diệt hết mọi ảo tưởng. Chính là một thắng lợi quá lớn cho con trai tôi. Con trai tôi thật xứng đáng được như vậy. Mong rằng Đức Thế Tôn, cùng với Yasa và các tỳ khưu đi theo, đến nhà tôi tham dự một bữa tiệc vào ngày hôm nay.”

Nghe vậy Đức Phật giữ im lặng, ra hiệu cho chàng trai biết ngài đồng ý và chấp nhận lời mời của ông. Nhà triệu phú hiểu ra điều này liền đứng lên, tỏ lòng tôn kính Đức Phật quay quanh Đức Phật dừng lại ở bên trái ngài và rồi ra đi.

Ngay sau khi nhà triệu phú ra đi, Chàng trai Yasa đã yêu cầu Đức Phật cho Thọ đại giới .”Ôi Đức Thế Tôn, mong rằng con có thể nhận Đại Thọ Giới gia nhập vào Tăng già của Đức Thế Tôn được chăng?” rồi sau đó Đức Phật ban cho phép chàng trai chấp nhận EHI, với những lời lẽ sau đây. “EHI hãy đến và trở thành tỳ khưu, mong rằng Phật Pháp được diễn giải cho tốt, hãy sống cuộc đời phạm hạnh.” Nhờ những lời trên Chàng Trai Yasa được ban Đại Thọ Giới theo cách EHI và cũng chính thông qua Bậc A-la-hán, con số các vị A-la-hán đã lên đến con số 7 người (kể cả Đức Phật và năm người sống bằng của bố thí).

Tuy nhiên người ta không kể lại chi tiết việc tỳ khưu Yasa nhận y cà sa và Bát khất thực như thế nào, và Yasa đã nhận nghi thức cắt tóc và râu khi nào và ở đâu. Nhưng trong tác phẩm Paṭhamasambodhikathā do Trưởng lão Kromphra Paramānujitajinorasa biên soạn có mô tả lại một biến cố đó như sau:

“Ngay sau khi cha ông lên đường về nhà, Chàng thanh niên Yasa đã xin Đức Thế Tôn được nhận thọ đại giới. Rồi sau đó Đức Phật đã ban cho chàng chức tỳ khưu EHI, thốt lên cùng một cách thức giống như ngài đã thực hiện với năm vị A-la-hán sống bằng của bố thí. Còn về y cà sa và bát khất thực và các đồ dùng cá nhân khác, toàn bộ những thứ đó đã được đem đến cho chàng từ trời rơi xuống, nhờ những công đức chàng đã tích lũy được từ trước. Trong khi đó râu và tóc của chàng tự động biến mất. Rồi ngài lãnh y cà sa mặc và mang theo nhiều đồ cần thiết hàng ngày; như vậy đã hoàn tất nghi lễ nhận thọ đại giới của chàng trai Yasa”

Một điều cần lưu ý là những đoạn văn trên do nhà soạn thảo chép từ những bản Kinh Phật cổ tức là Kinh Pali và các tập Chú Giải. Tác giả chẳng tự biên soạn điều gì cả, Tuy nhiên, tác giả đã không chịu khó đề cập đến những đoạn văn đó đã được sắp xếp ở đâu.(vì vào thời đó, điều đó không nhất thiết phải làm như vậy.)

Đây là một bài tường thuật ngắn viết về Trưởng lão Yasa, đặc biệt đoạn văn cho thấy Đức Phật đã tận dụng phép thần thông Tirobhāva tức là phép lạ (thần thông) ngăn không cho thấy người hay đồ vật mà thực tế có thể dễ dàng nhìn thấy. Thêm vào biến cố này, chúng ta còn được biết Đức Phật cùng với Trưởng lão Yasa, đã đến tham dự bữa tiệc tại nhà riêng của nhà triệu phú ra sao vào buổi sáng ngày hôm sau. Mẹ và vợ của chàng thanh niên Yasa cũng đã chăm sóc Đức Phật thì nhất thiết hai người đó cũng đã nhận ra chàng thanh niên Yasa đã trở thành tỳ khưu ra sao, nhưng ta không thấy đề cập gì đến phản ứng của hai người cả. Rồi sau đó Đức Phật đã thuyết pháp cho cả hai người phụ nữ này về năm pháp tuần tự quan trọng phải tiến tới là như thế nào, đồng thời ngài cũng diễn giải cho họ về Tứ Diệu Đế giống hệt như Ngài đã thuyết pháp cho Yasa và cha của chàng. Vào cuối bài thuyết pháp cả hai đã được nhận Pháp Nhãn, họ hết lời khen ngợi tài thuyết pháp của Đức Phật và tuyên bố trở thành là cận sự Nữ (upāsikās) có nghĩa là đồ đệ đạo hữu trong suốt cuộc đời còn lại của họ. Theo Kinh Pali thuật lại, hai người phụ nữ đó đã trở thành những cận sự nữ Phật giáo đầu tiên vậy.

Trưởng lão Đại Đức Maha Kappina

Trưởng lão Kappina là hoàng tử của nhà vua nước Kukkutavatī. Ngài đã lên kế vị vua sau khi cha truyền lại ngai báu cho ngài. Hoàng hậu của nhà vua tên là Anojādevī, là con gái của vua thuộc thành phố Sāgala, vương quốc Maddarraṭṭha. Nhà vua có năm con ngựa nòi có tên theo thứ tự như sau: Bala, Balavāhana, Puppha. Pupphavāhana và Supatta, con ngựa cuối cùng được dành riêng cho nhà vua. Trong khi đó bốn con còn lại được giao cho những người khác để đưa nhà vua đi thăm nhiều nơi trong khắp vương quốc để xác định xem những tin tức được tường trình có thực sự diễn ra nơi Tam Bảo tức là Phật, Pháp và Tăng già hay không và chính xác đến mức độ nào. Mỗi buổi sáng ngài đều cho các sứ giả dùng bữa điểm tâm rồi sai họ bủa đi khắp nơi để thu thập tin tức. Họ chỉ cần vượt qua một ít Yojana mỗi ngày rồi lại quay trở về báo hết mọi tin tức cho nhà vua.

Một ngày kia chính nhà vua cũng cưỡi ngựa Supatta ra đi thu thập tin tức như vậy, cùng với một đoàn tùy tùng cưỡi ngựa khoảng cả ngàn con ngựa. Họ đã bắt gặp một đoàn thương gia lên đến năm trăm người đang mệt mỏi lê bước tiến về phía thành phố. Nhà vua nghĩ trong tâm, “Những người này chắc đã phải di chuyển từ một vùng đất xa lắm đến đây thì phải, chính vì vậy họ xem ra có vẻ mệt mỏi và kiệt sức. Rất có thể trẫm nên khai thác một ít tin tức từ những thương gia này.” Nói đoạn nhà vua ra lệnh cho các thương gia đến gặp ngài và hỏi họ, nói rằng, “ Các ngài từ nước nào tới đây vậy?”

“Ôi Tâu Đức Đề Bà” một vị thương gia lên tiếng, “chúng tôi đến từ một miền xa xôi cách đây cả 120 Yojana, ở đó có một thành phố tên là Sāvatthi. Chúng tôi đã đến từ thành phố đó.”

Nhà vua lên tiếng, “Ở đó có điều gì các khanh có thể cho trẫm biết được chăng?”

Họ trả lời, “Ôi Tâu Đức Đề Ba, ở đó chẳng có gì quan trọng cả, chỉ trừ có một điều thành phố đó đã có Đức Chánh Đẳng Chánh Giác giáng lm ở đó.”

Nghe thấy những lời đó nhà vua tràn ngập vui mừng với năm trạng thái phỉ lạc làm cho nhà vua quên mất những gì đang diễn ra xung quanh đó trong giây lát. Một nguồn vui tràn ngập đã khiến nhà vua quên mất điều các thương gia vừa cho ngài biết trước đó khiến ngài lại nhắc lại câu hỏi và nhà vua đã nhắc lại những câu hỏi ba lần liên tiếp như vậy. Cho mãi đến lần thứ tư nhà vua mới có thể kiểm sóat được chính mình và ngài hỏi họ thêm. “Thế không còn tin tức gì nữa hay sao?” Khi họ cho nhà vua biết cả Giáo Pháp và Tăng Già cũng được sanh ra ở đó. Nhà vua lại vui mừng hơn truớc về những tin tức đo, rồi ngài ban cho họ ba ngàn tiền làm phần thưởng.

Sau đó nhà vua truyền cho đoàn tùy tùng gồm một ngàn cận thần, “Đến giờ trẫm mới nghe biết Đức Phật, Giáo Pháp và Tăng-Già đã được sinh ra trên cõi đời này, trẫm sẽ không quay trở về thành phố nữa và muốn đến gặp Đức Phật và dành cuộc đời còn lại của trẫm đến sống cuộc đời phạm hạnh với ngài. Thế các khanh có ý kiến và làm gì không?” Họ đồng thanh trả lời. “Tâu Bệ Hạ, chúng hạ thần cũng muốn theo gương bệ hạ.”

Rồi nhà vua truyền cho những người lưu giữ hồ sơ hoàng gia ghi lệnh của ngài lên một tấm bia bằng vàng và truyền cho các thương gia, nói rằng “Hoàng hậu Anojā sẽ ban thưởng cho các khanh ba trăm ngàn đồng. Trẫm yêu cầu các khanh hãy thông báo cho hoàng hậu là trẫm truyền lại ngai vàng cho Hậu. Mong rằng Hậu lên ngôi vua và sống hạnh phúc. Nếu Hậu có hỏi các khanh, trẫm đi đâu, các khanh cứ nói cho Hậu biết là trẫm sẽ tiến hành cuộc sống vô gia cư và cống hiến cuộc đời còn lại của trẫm cho Đức Phật, Nhà vua đã thực hiện điều này trước khi về cõi thiên thai.”

Toàn bộ các vị cận thần của nhà vua cũng sai người về báo cho vợ con của họ như vậy và mọi sự đã được thực hiện đúng y như vậy, Đức vua cùng với một ngàn vị cận thần đã rời khỏi địa điểm đó và tiến thẳng về thành phố Sāvatthi.

Đức Thế Tôn vào buổi sáng ngày hôm đó đã nhìn thấy có người xuất hiện trên mạng Nhãn Thông của Ngài và đó là nhà vua Kappina cùng với một ngàn vị cận thần đang trên đường đi và qua phép nhãn thông ngài đã nhìn thấy tất cả những gì đã xảy ra ngay cả trước đó. Đức Phật cũng biết rõ toàn bộ họ đều đã may mắn có tiềm năng đạt đến bậc A-la-hán. Ngài cũng còn biết trước họ cũng sẽ gặp ngài vào ngày hôm sau. Chính vì thế, ngài đã mặc y cà sa và lấy bát khất thực vượt một chặng đường khoảng hơn 120 Yojana để chào đám người đó. Chính Ngài ngồi dưới gốc một cây đa cổ thụ gần bờ sông Candabhāganadī, tỏa ra ánh sáng sáu màu cùng hương thơm ngọt ngào dâng trào.

Nhà vua cùng đoàn tùy tùng phải vượt qua ba con sông trước khi có thể tiến đến chỗ Đức Phật đang ngồi thiền chờ họ. Con sông đầu tiên họ phải vượt qua có tên là Āravapacchā, con sông thứ hai tên là Nilavahan và sau cùng là con sông CandabhĀga. Cả ba con sông đều rất rộng và không có bất kỳ cây cầu, thuyền tầu hay bè mảng có thể giúp họ qua sông. Chính nhờ phép lạ (thần thông) mà tất cả họ đã thành công vượt qua được cả ba con sông. Cùng với toàn bộ ngựa đi trên mặt nước giống như trên mặt đất cứng. Tập Chú Giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada) đã mô tả tình tiết này như sau:

Tiến lại gần bờ sông, nhà vua lên tiếng hỏi, “Tên sông này là gì vậy?” họ trả lời “Tâu Hệ Hạ, con sông có tên là Āravapacchā,.”

Nhà vua liền hỏi thêm, “Sông có rộng không?”

“Tâu Bệ Hạ, Sông sâu một Gāvuta và rộng khoảng hai Gāvuta.” (một Gāvuta bằng 4 km.)

Nhà vua hỏi thêm, “Có kiếm đâu ra tàu thuyền hay bè mảng gì không?”

“Tâu Bệ Hạ, chẳng có gì cả.”

Như vậy nhà vua nói. “Thế thì đợi cho đến lúc chúng ta tìm được tầu thuyền và bè mảng chắc đứa bé mới sanh ra chắc đã phải đạt đến tuổi già, và người có tuổi chắc đã chết từ lâu. Lúc này trẫm không có nghi ngờ hay lưỡng lự gì cả, phải tiến tới bằng bất cứ giá nào để trẫm dâng hiến cuộc đời còn lại của trẫm cho Tam Bảo. Nhờ phép thần thông của Tam Bảo, mong rằng nước biến thành điều gì đó không phải là nước.” Nói xong những lời đó, nhà vua nhập thiền định nhất quán không lay chuyển vào các ân đức Tam Bảo, Nhà vua liền cưỡi ngựa đi trên mặt nước, tiếp theo sau là đoàn tùy tùng của nhà vua đi theo sau, mọi người cũng có cùng thái độ tuệ giác giống y hệt như nhà vua. Lạ lùng thay, toàn bộ ngựa đều phi nước đại trên mặt nước thoải mái như thể đang phi trên mặt đất vậy. Và toàn bộ đoàn ngựa đã qua sông ráo chân.

Nhà vua và đoàn tùy tùng cũng vượt qua sông thứ hai và thứ ba y hệt như vậy, ngay sau khi họ đã vượt qua con sông thứ ba ráo chân, họ nhìn thấy luồng sáng sáu màu phát ra và mùi thơm ngào ngạt lan tỏa từ thân xác Đức Phật đang ngồi thiền dưới gốc cây đa. Toàn bộ cây đa, như cành cây, nhánh to nhánh bé và lá đều được tắm trong ánh sáng siêu nhiên đó. Toàn bộ đều giống như được mạ một lớp vàng vậy.

Hiện tượng đầy kinh ngạc này bảo đảm cho nhà vua một điều rằng những ánh sáng thiên cung tuyệt vời đó chắc chắn phải thuộc về Đức Phật và nguồn phát ra thứ ánh sáng đó chẳng phải ai khác hơn là đức Thế Tôn vậy. Nhà vua nghĩ trong tâm Đấng Toàn Giác chắc chắn đã phải nhìn thấy họ đang tiến tới và chính vì vậy Ngài đã ngồi thiền dưới gốc cây đa đó và đợi tất cả chúng ta.

Tất cả họ xuống ngựa và tiến lại gần Đức Thế Tôn, ngài đã thuyết pháp cho họ một bài nhờ vậy mà toàn bộ họ đã đạt được Pháp Nhãn và tất cả đã yêu cầu được nhận Thọ Đại Giới.

Biến Không Khí Thành Những Vật Rắn Chắc

Chấp nhận ban Thọ Đại Giới cho họ, Đức Phật đã cân nhắc đắn đo. “Có nên lấy phép lạ (thần thông) để tạo y Cà Sa và bát Khất Thực bọn người này chăng?” Nhớ lại tiền kiếp của họ, Ngài được biết họ đã từng dâng một ngàn y cà sa cho một ngàn vị phật độc giác. Một lần nữa, mới xẩy đây thôi, có một đức phật giáng trần với tên gọi là Ca Diếp (Kassapa), họ cũng đã dâng hai mươi ngàn bộ y cà sa cho hai mươi ngàn tỳ khưu. Điều này khiến họ có thể được nhận y Cà Sa và bát Khất thực một cách kỳ diệu.

Sau khi nhận ra điều này, Đức Phật liền đưa tay phải ra và nói với họ, “Hãy lại đây, và trở thành tỳ khưu. Hãy theo đuổi cuộc sống phạm hạnh vì muốn diệt trừ đau khổ.” Ngay sau đó xuất hiện đầy đủ y Cà sa và bát khất thực cùng những vật dụng cần thiết cho những người này sử dụng. Sau khi họ đã được mặc y cà sa và nhận những vật dụng cần thiết. Họ trông giống hệt những vị Trưởng lão đã được nhận Thọ Đại Giới cả trăm năm nay. Tất cả họ đều bay lên trời, rồi hạ xuống để tỏ lòng tôn kính Đức Thế Tôn và ngồi vào vị trí dành riêng cho họ.

Dưới đây là một số nhận định của tôi liên quan đến những đoạn trên đây. Đoạn nói về những người ngày đã dâng một ngàn bộ y Cà sa cho các vị phật Độc giác và cho hai mươi ngàn Chư vị tỳ khưu được trích trong Kinh Phật gọi là Thí Dụ Kinh (Apadāna) (33/186) kể lại tiền kiếp của nhà vua Mahāpappina. Điều này chứng tỏ một chân lý cho rằng bất kỳ một điều gì được nhận một cách lạ lùng đều phải có cơ sở, cũng như nên đặt cơ sở trên luật nhân quả. Không có việc dâng cúng nào đó trong quá khứ làm nhân duyên thì chẳng hy vọng nhận được bất kỳ điều gì hậu quả cả. Chúng ta cũng nên nhớ rằng Đức Phật không thể tạo ra bất kỳ vật dụng cần thiết nào cho toàn bộ Chư Vị A-la-hán đó. Một ví dụ được nêu lên trong trường hợp ngài Bāhiya. Ngay cả sau khi ngài đã đạt đến bậc A-la-hán, sau khi đã nghe Đức Phật thuyết pháp, chính ngài đã nói với ông hãy tự đi kiếm lấy cho mình y cà sa và bát khất thực. Điều này chứng tỏ bāhiya chưa tích lũy được loại công đức này và như vậy ngay cả Đức Phật cũng klhông thể tạo ra được y cà sa và bát khất thực cho ngài Bahiya.

Đối với những ai biết tiếng Pali đồng thời muốn tìm hiểu trực tiếp đoạn này, chúng tôi xin giới thiệu đoạn văn (trích từ tập chú giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada) dưới dây như sau:

“Desanāvasāna rājā saparivāro sotāpạttiphale patiṭṭhahi. Atha sabbeva uṭṭhahitvā pabbajjaṃ yāciṃsu. Satthā :Āgamissati mu kho imesaṃ kulaputtānaṃ iddhimayapattacūvaranti” upadhārento “Ime kulaputtā paccekabuddhasahassassa cūvarasahassaṃ adaṃsu. Kasapabuddhakāle vīsatiyā bhikhusahassānanpi visati cūvarasahassāni adaṃsu. Anacchariyaṃ imesaṃ iddhimayapattacūvaragamananti” ñatvā dakkhinahatthaṃ pasāretvā “Etha bhikkhavo, caratha brahmacariyaṃ sammā dukkhasa antakiryāyāti” āha. Te tāvadeva aṭṭhaparikkhāradharā vassasatikattherā viya hutvā vehāsaṃ abhuggantvā paccoroitvā satthāraṃ vanditva nīsidiṃsu.”

Tuy nhiên, những đoạn Pali dài hơn vẫn không làm cho sự việc rõ ràng hơn cho những ai muốn biết thêm nhiều chi tiết khác nữa. Rất có thể, ngay sau khi đưa cánh tay phải ra và nói như vậy, liền xuất hiện những đồ cần dùng cho tất cả các tỳ khưu đã được tạo ra một cách mầu nhiệm. Ngay sau đó nhờ những hành động công đức họ đã thực hiện được trong quá khứ. Rồi họ bắt đầu xuống tóc và mặc y cà sa, hay cũng có thể họ không xuống tóc ngay lúc đó (tóc của họ tự động rụng hết cùng một lúc) nhưng chỉ mặc y cà sa mà thôi. Lại nữa, điều này có thể xảy ra, ngay sau khi Đức Phật đã phán như vậy, thì quần áo đời thường của họ biến mất và rồi được thay thế ngay tức khắc bằng áo cà sa cho các vị tỳ khưu trên mình họ. Trường hợp thứ hai này giống như việc thay quần áo về phần các opapātika có nghĩa là các vật vô hình. Thường hay xảy ra một cách nhanh chóng lạ thường.

Toàn bộ những điều vừa nêu trên tôi xin dành để cho các học giả phê phán vì điều này vượt quá hiểu biết và kiến thức của tôi vào lúc này. Biết bao nhiêu phép lạ (thần thông) như vậy đã được ghi lại trong Kinh Phật, vậy mà với một người hiện đại, hình như họ vẫn không thể tin được.

Trong tập Chú giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada) còn có một số chi tiết như sau:

Khi các sứ giả thương gia đến gặp hoàng hậu và tường trình về những gì họ được yêu cầu phải làm, ngoài việc trả cho họ phần thưởng ba trăm ngàn đồng vàng, hoàng hậu còn cho thêm một số tiền khoảng chín ngàn đồng nữa. Đây là món tiền thưởng cho những tin tốt lành họ đã đem đến cho hoàng hậu. Có nghĩa là việc xuất hiện của Tam Bảo. Cuối cùng hoàng hậu cùng với các bà vợ của một ngàn vị cận thần đi theo nhà vua, đã công bố theo gương nhà vua. Tuy nhiên, họ không cưỡi ngựa, nhưng ngồi trên một ngàn chiếc xe có ngựa kéo. Trên đường đi họ cũng gặp ba con sông phải vượt qua. Nhờ vào quyết định trung thành, họ đã thành công vượt qua sông theo cách nhà vua và các vị cận thần đã thực hiện. Cho đến khi họ đến gặp Đức Phật, ngài vẫn đang ngồi thiền dưới gốc cây đa, cùng với nhà vua Mahākappina và các vị cận thần của ngài ngồi bên cạnh.

Tuy nhiên nhờ phép thần thông ngụy trang Đức Phật đã khiến cho nhà vua và các vị cận thần không thể nhận ra hoàng hậu, khiến cho hoàng hậu và đám tùy tùng không thể nhận ra nhà vua và những người cận thần vào lúc đó. Khi hoàng hậu hỏi Đức Phật về nhà vua chồng của bà, Đức Phật nói với hoàng hậu “Ôi hoàng hậu, hãy ngồi xuống đây, chút xíu nữa ngài sẽ nhìn thấy Hoàng Thượng ngay tại đây.” Đương nhiên là hoàng hậu và đoàn tùy tùng rất phấn khởi chắc chắn là chẳng bao lâu nữa họ sẽ có thể gặp được nhà vua và các vị cận thần. Thế là họ ngồi vào chỗ dành cho họ.

Đức Phật đã diễn giảng cho họ năm pháp tuần tự phải tiến tới. Tiếp theo ngài cũng diễn giảng Tứ Diệu đế cho các phụ nữ đó. Cuối cùng hoàng hậu và đoàn tùy tùng cũng nhận được Pháp Nhãn và trở thành Đấng Nhập Lưu. Trong khi đó nhà vua cùng với các vị cận thần ngồi gần ngay bên đã nhập thiền một lần nữa những gì Đức Phật đã thuyết pháp trong bài giảng cho hoàng hậu và đoàn tùy tùng và nhà vua đã đạt đến bậc A-la-hán cùng với bốn loại Vô Ngại Giải Đạo (paṭisambhidā) vào cuối bài thuyết pháp.

Sau khi biết được điều này Đức Phật đã giải tỏ sức mạnh thần thông của ngài và khiến cho các phụ nữ nhìn thấy đức vua và các vị cận thần của ngài lúc này đã trở thành các vị đồ đệ bậc thánh A-la-hán .

Lý do được nhắc đến trong kinh Phật ở đây chính là giống như trường hợp chàng trai Yasa và cha cậu, Đức Phật biết rằng nếu các phụ nữ này trông thấy chồng họ sớm hơn thì tâm trí họ có thể không tập trung được vì chú ý của họ có lẽ sẽ bị phân tán vì hình bóng người đàn ông. Điều này có thể ngăn cản bước tiến tới đến thánh đạo. Nhưng sau khi họ đã đạt đến thánh đạo và kết quả là họ đã trở thành Đấng Nhập Lưu họ sẽ được chúc lộc lành với đức tin không thể lay chuyển nổi vào Tam Bảo. Chính vì thế họ được phép nhìn thấy chồng sẽ không tạo ra nguy hại cản đường thành đạt của họ nữa.

Vừa nhìn thấy nhà vua đã trở thành tỳ khưu, những người đàn bà liền phủ phục trước chồng và lên tiếng “Thật tuyệt vời, ôi người tôi yêu, chàng đã trở thành hoàn hảo, cuộc sống tịnh tấn trước mặt em” nói xong, họ liền đứng vào đúng vị trí của họ và xin Đức Phật ban Thọ Đại Giới cho họ.

Đức Phật nói “các ngươi có thể đi đến thành phố Sāvatthi và được thọ giới theo nhóm các tỳ khưu ni ở tại đó.” Toàn bộ các phụ nữ đã làm y những lời Đức Phật truyền dạy, họ đã trẩy Sāvatthi cách đó 120 Yojaga và nhận được những lời khen ngợi và kính trọng từ những người địa phương. Cuối cùng thì họ cũng đến được địa điểm cần đến và nhận được thụ phong theo giáo phái tỳ khưu ni và đã đạt đến bậc A-la-hán. Tuy nhiên. Đức Phật đã dẫn một ngàn tỳ khưu bay trên không đến khu rừng Kỳ Viên (Jeta) (đoạn tiếng Pali như sau: Satthāpi Bhikkhusahasssaṃ ādāya ākāsenava Jetavanaṃ agamāsi)

Trong tập Chú Giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada) còn có một số chi tiết các bài tường thuật về Trưởng lão Mahākappina, nhưng chẳng có gì liên quan đến các phép lạ (thần thông) chúng tôi sẽ bàn đến lúc này. Mục tiêu của Trưởng lão Buddhaghosa trong việc tường trình chuyện kể này chính là kể lại một ví dụ được gọi là Phép lạ (thần thông) Tirobhāva tức là phép lạ (thần thông) ngăn không cho thấy người hay đồ vật mà thực tế có thể dễ dàng nhìn thấy rõ ràng và gần sát ngay bên. Như chính Đức Phật đã thực hiện trong trường hợp này.

Tuy nhiên, trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) còn ghi lại một số khác biệt liên quan đến chuyện kể vừa đề cập đến ở trên như sau:

Vì Đức Phật biết rõ nhà vua Kappina cùng với các vị cận thần đã quyết định “lên đường” và đang di chuyển đến gặp ngài đã tiến tới sông Candabhāga, là nơi Đức Phật đang ngồi thiền chờ họ dưới gốc cây đa bên bờ sông. Người ta cũng kể lại rằng ngài đã phải vượt một chặng đường dài 120 Yojana. Nhưng không cho biết ngài bay trên không hay đi bộ đến đó. Khi những người trên đã đến đó, ngài liền thuyết pháp cho họ một bài và sau bài giảng nhà vua đã đạt đến bậc Quả Bất Lai (anāgami), còn các vị cận thần cũng đã đạt đến bậc Đấng Dự Lưu (Sotapnna). Sau này, khi hoàng hậu Anojā đến được cùng địa điểm trên y như cách nhà vua và các vị cận thần đã phải vượt qua. Đức Phật đã thực hiện phép lạ (thần thông) dấu không cho nhà vua và các vị cận thần của ngài đang ngồi gần đó, khiến họ không thể nhìn thấy người nhà của mình. Khi Hoàng hậu hỏi ngài có gặp hay không, Đức Phật hỏi lại họ một câu mang tính Phật pháp rất có lợi cho họ, nói rằng: Hoàng Hậu đi tìm Đức Phật hay tìm chính mình vậy. Khi Hoàng hậu trả lời rằng Hậu chọn đi tìm chính mình và ngồi xuống, Đức Phật đã thuyết pháp cho họ một bài giảng, nhờ đó hoàng hậu và một ngàn người đi tháp tùng đã đạt đến bậc Quả Nhập Lưu. Các vị cận thần của nhà vua sau khi nghe bài giảng đó cũng đã đạt đến bậc Quả Bất Lai. Trong khi đó chính nhà vua lại đạt đến bậc A-la-hán.

Điều đó được mô tả trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga). Cũng cần lưu lý rằng trong tập Chú Giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada) sau bài giảng cho họ, cả nhà vua và các vị cận thần đã đạt đến bậc Quả Nhập Lưu cùng một lúc. Chính sau này, khi họ được nghe bài giảng ấy lần thứ hai Đức Phật giảng giải cho hoàng hậu Anojā và đoàn tùy tùng thì nhà vua cùng các vị cận thần đạt đến bậc A-la-hán. Nhưng theo Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), trước tiên nhà vua đã đạt đến bậc Quả Bất Lai, rồi sau đó là bậc A-la-hán, trong khi đó lúc đầu các vị cận thần của ngài chỉ đạt đến được bậc Quả Nhập Lưu, rồi sau đó mới đến bậc Quả Bất Lai. Không đả động gì đến Tứ đạt thông (fourfold Fluency Paṭisambhidā); cũng như việc Đức Phật dẫn toàn bộ các tỳ khưu bay trên không trở lại Rừng Kỳ Viên (Jeta Grove).

Một Phép lạ (thần thông) Khác Về Dấu Không Cho Nhìn Thấy

Chuyện kể này được thuật lại trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) như sau:

Như đã mô tả ở trên, người thực hiện phép lạ (thần thông) này đã dấu không cho nhìn thấy cả những vật lẫn những người trước mặt, nhưng lại không tự dấu chính mình được. Những ví dụ về loại phép lạ này phép lạ hiện diện tại hai nơi cùng một lúc (Twin Miracle), chính Đức Phật đã thực hiện trước sự chứng kiến của rất nhiều người. Tất cả đều nhìn thấy người thực hiện phép lạ (thần thông). Nhưng còn có một khía cạnh khác thuộc phép lạ (thần thông) này đó là: trong đó người khác cũng có thể chứng kiến chính phép lạ (thần thông), nhưng không nhìn thấy người thực hiện. Điều này giống với các phép lạ (thần thông) Āvibhāva Pāṭithāriya. Có một ví dụ kể về một vị trưởng lão đã đạt đến bậc A-la-hán, tên là Mahaka và Vị Thiên Chủ Phạm Thiên tên là Baka. Tuy nhiên, các biến cố được kể lại trong đó lại rất ngắn gọn. Rất khó cho những ai chưa biết đến các vị đó. Bởi vậy cho nên tác giả kể lại chi tiết cả hai biến cố trích trong Kinh Pali (18 Saḷāyatanavagga trang 356 số 554 – 21 và Mūlapaṇṇāsaka trong Trung Bộ Kinh trang 590 số 551)

Chuyện Kể Về Trưởng lão Mahaka

Một lần kia có rất đông các vị trưởng lão trụ trì tại khu rừng Ambakata, gần rừng Macchikasaṇḍda. Vào thời đó có một người giàu có tên là Citta đã đến thăm các vị trưởng lão, khi đã an vị đúng chỗ dành riêng cho ông, liền lên tiếng, “Trọng kính các chư vị trưởng lão, các vị có thể đến dùng bữa tại trại bò của tôi vào ngày mai được không.” Các vị trưởng lão đã nhận lời mời bằng cách giữ im lặng. Sau khi được biết và hiểu ra sự ưng thuận của họ, Citta đứng dậy ra khỏi chỗ ngồi và đi vòng bên phải quanh họ, và rồi ông ra về.

Vào buổi sáng hôm sau các chư vị tỳ khưu mặc y Cà Sa và lấy bát khất thực tiến lại trại bò và ngồi thiền ngay tại chỗ đã sửa sọan cho họ. Rồi người giàu có kia đã dâng cho họ món cơm trộn với một loại bơ lỏng hảo hạng do chính tay ông sửa soạn. Sau khi kết thúc bữa ăn các tỳ khưu rửa tay và cả bát khất thực rồi xếp bát khất thực vào vị trí bố thí rồi về trở lại rừng Ambakara.

Citta ra lệnh cho các nô bộc và những người trong trại xử lý số đồ ăn còn dư lại. Trong khi đó chính ông đi tiễn các vị tỳ khưu. Lúc đó trời nóng oi ả ngột ngạt và các vị tỳ khưu mệt mỏi bước đi trên đường thân xác họ như bị co dúm lại (một thành ngữ ám chỉ thân thể họ giống như miếng khoai tây chiên hay một khoanh thịt nướng trên lửa đang bị teo lại)

Trong số các tỳ khưu đó, có vị trẻ nhất (căn cứ vào tuổi nhận thọ giới), ông đã xin vị tỳ khưu niên trưởng trong nhóm, nói rằng, “Ôi thưa ngài trưởng lão kinh mến, nếu như lúc này có một cơn gió lạnh và ánh mặt trời dịu xuống dăm ba độ, cùng với một cơn mưa phùn thì hay biết mấy.” Vị trưởng lão nói với tỳ khưu Mahaka, “Ôi! Thật tuyệt vời nếu được như vậy.” Khi vị trưởng lão vừa dứt lời, thông qua sức mạnh thần thông của mình, tỳ khưu Mahaka đã tạo ra một cơn gió lạnh. Cùng lúc đó ánh mặt trời dịu hẳn đi và có cơn mưa phùn bay lất phất. Các vị tỳ khưu giờ đây không còn phải đổ mồ hôi nhễ nhãi dưới sức nóng mặt trời như thiêu như đốt nữa.

Được chứng kiến phép lạ (thần thông) nhãn tiền đó, người giàu có Citta tự nhủ, “Vị tỳ khưu này tuổi nhỏ mà tài cao; tuy vậy ngài đã có khả năng đáng kinh ngạc như vậy.” Sau khi các vị tỳ khưu đã quay trở lại khu Rừng, tỳ khưu Mahaka hỏi trưởng lão niên trưởng trong đám các vị tỳ khưu. “Thưa ngài Trưởng lão, làm như vậy đã đủ sức mạnh sáng tạo chưa?” Vị trưởng lão lên tiếng, “Ôi Mahaka, quá đủ rồi, ngài đã thực hiện điều thật tuyệt vời.”

Các vị tỳ khưu trở về phòng riêng dành cho mỗi người, Còn Citta người giàu có đã theo tỳ khưu Mahaka về phòng riêng, sau khi đã an vị đúng chỗ, Citta yêu cầu tỳ khưu, nói rằng, “Xin Ngài Trưởng lão chỉ cho tôi thấy sức mạnh thần thông của ngài.”

Tạo Ra Lửa

Tỳ khưu Mahaka nói với Citta, “Nếu ông ước ao được thấy điều đó, hãy để chiếc khăn choàng của ông xuống hành lang kia, rồi rải chút cỏ lên đó.” Citta làm y theo lệnh truyền, trong khi đó Mahaka đi vào trong sảnh đường, đóng cửa và cài then kỹ lưỡng, rồi thông qua sức mạnh thần thông, ngài đã tạo ra các lưỡi lửa phun ra từ lỗ chìa khóa và các kẽ hở trên cửa. Ngọn lửa đã bắt cháy và thiêu rụi nắm cỏ khô một cách kỳ lạ, còn chiếc khăn choàng của Citta không hề hấn gì.

Được chứng kiến phép lạ (thần thông) đó, Citta như bị choáng ngợp trong nỗi kinh ngạc sung sướng vô ngần, khiến tóc gáy ông dựng đứng lên. Ông nhặt chiếc khăn choàng lên, vẫn còn sót lại ít cỏ khô đã cháy gần hết, để chắc chắn là mình chỉ không “nhìn thấy” mà thôi mà còn sờ mó nữa. Lúc đó vị trưởng lão bước ra và hỏi ông, “ Ôi chủ gia nhân, hãy cho tôi biết phép thần thông như vậy đã đủ chưa?”

Citta trả lời, “Dạ đủ rồi thưa ngài Trưởng lão, ngài đã thực hiện một điều tuyệt vời. Mong rằng ngài được sung sướng sống tại khu rừng Ambakata này, gần bên khu rừng Macchikasaṇḍda. Về phần tôi, tôi sẽ chu cấp cho các vị y cà sa, của bố thí, chỗ ở và thuốc men.”

Vị trưởng lão trả lời “ Ôi Chủ Gia nhân, điều ông nói thật là tuyệt.” Rồi ngài trưởng lão thu gom y cà sa, bát khất thực và rời khu rừng Macchikasaṇḍda, không bao giờ trở lại nữa.

Đây là những gì được kể lại trong Kinh Pali về Trưởng lão Mahaka. Ta cần lưu ý là tiết mục phép lạ (thần thông) cuối cùng của ông cũng gồm trong loạt những phép lạ (thần thông) được gọi là Tirobhāva (phép lạ (thần thông) gần) vì ngài đã trở vào thiền viện hay chính xác hơn, vào trong sảnh đường trước khi tạo ra các lưỡi lửa lóe ra qua lỗ ổ khóa và các kẻ hở trên cửa, lúc đó ngọn lửa chỉ thiêu rụi một cách lỳ lạ dúm cỏ khô rải trên tấm khăn choàng, nhưng lại chừa khăn choàng không hề hấn gì. Toàn bộ khoảng thời gian đó vị trưởng lão lại ở trong sảnh đường, cửa đóng kín và cài chốt khóa rất cẩn thận. Chủ Gia nhân không nhìn thấy vị trưởng lão; những gì ông nhìn thấy chỉ là các lưỡi lửa phát ra để thiêu rụi nắm cỏ khô ở bên ngoài. Trong phép lạ (thần thông) này, người thực hiện không được nhìn thấy. Phép lạ này được gọi là Tirobhāva (gần với, hay là được ngụy trang) cũng còn được gọi với một tên khác nữa là Apākaṭapāṭithāriya, có nghĩa là phép lạ (thần thông) không thể nhìn thấy người thực hiện.

Đức Phật Cảm Thắng Phạm Thiên Baka

Một ví dụ khác nữa về phép lạ (thần thông) Tirobhāva (phép lạ (thần thông) xuất hiện ở một nơi xa lạ hay tự dấu mình) do Trưởng lão Buddhaghosa, tác giả Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), kể lại về trường hợp Đức Phật cảm thắng Phạm Thiên Baka. Nhưng chỉ được bàn cãi một cách tình cờ và ngắn gọn khiến những độc giả trước kia chưa bao giờ nghe nói đến phép lạ (thần thông) này chắc chắn sẽ bỏ qua không chút quan tâm. Nhằm phục vụ quí độc giả chúng tôi xin trích dẫn ở đây với đầy đủ chi tiết về những bài tường thuật sau đây trích từ Kinh Pali. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần trích một đoạn kệ trong các trích đoạn “Bāhuṃ” (có nghĩa là những kẻ được chúc phước” có liên quan đặc biệt đến giai thoại này như sau:

Duggāhadiṭṭhi bhujagena sudatthahatthaṃ
Brahmaṃ visuddhijutimiddhakābhidhānaṃ
Ñāṇāgadhena vidhinā jitvā munindo
Tantejasā bhavatu te jayamañgalāni.

Vị Sa môn Ưu Việt (tức là Đức Phật) đã cảm hóa được vị Phạm Thiên tên là Baka, một nhân vật thực hiện được rất nhiều phép thần thông, nhưng lại theo tà kiến và đã coi mình nổi tiếng với nhiều công đức đã được tà kiến. Ngài đã kiên định bám víu với những tà kiến đó (có nghĩa là tự lừa dối mình), do vậy ngài được ví như một người đã bị mãng xà vương cột chặt. Nói cách khác, ngài giống như một người nắm phải rắn độc, và bị rắn mổ vào tay vô tội vạ. Chính nhờ một bài thuyết pháp dẫn nhập đến tuệ giác, Đức Thế Tôn đã thuyết phục và cảm hóa được con người này. Mong rằng ngài được ban thưởng vinh quang chiến thắng nhờ những kệ chiến thắng này.

Đây là một phần trong các đoạn Kinh Tụng gọi là Kinh Bāhuṃ, gồm có việc được chúc phúc nhờ ân huệ các việc thuyết phục và chiến thắng của Đức Phật trong cuộc sống của ngài. Đoạn này trích trong Kinh Pali (tác phẩm Mulapaṇṇāsaka thuộc Trung bộ Kinh, trang 290 số 551).

Vào thời điểm nọ, Đức Phật đang lưu lại trong Khu Rừng Kỳ Viên (Jeta) do một nhà triệu phú tên là Anāthapiṇḍika dâng tặng cho Ngài, khu rừng tọa lạc gần thành phố Sāvatthi. Tại đây ngài kể lại câu chuyện sau đây cho các vị tỳ khưu.

“ Các vị tỳ khưu thân mến, một dịp nọ, ta đang lưu lại dưới bóng cây cổ thụ Sila trong khu rừng Subhāga gần thành phố Ukkaṭṭha, lúc đó có một vị Phạm Thiên nọ tên là Baka, đang theo đuổi tà kiến cho rằng, “Cõi Phạm Thiên bất biến, bền vững, tồn tại vĩnh viễn và tuyệt đối, là nơi không còn “diệt” (cuti) mà cũng chẳng có “sanh”. Không còn tuổi già, cảnh chết, cảnh diệt và tái sinh nữa. Chính vì chẳng tồn tại bất kỳ khởi đầu diệt khổ nào, thế nên chẳng tìm đâu ra nguồn cội khổ nơi cõi Phạm Thiên đó.”

“Ôi chư vị tỳ khưu, vừa biết quan điểm sai lạc của vị Phạm Thiên này, ta đã lập tức rời khỏi bóng mát cây cổ thụ Sāla trong khu rừng Subhāga, và ngay sau đó thầy đã có mặt nơi cõi Phạm Thiên. Ta đã thực hiện điều này dễ dàng giống như một người khỏe mạnh giang cánh tay ra rồi lại gập lại chỉ trong nháy mắt.

“Nhìn thấy mình xuất hiện từ xa, Phạm Thiên Baka liền lên tiếng với ta, nói rằng, “Xin Chào Đấng Tận Diệt đau khổ. Ta đến thật đúng lúc. Đã một thời gian dài trước khi ta đến đây. Trước khi ta đã tận diệt hết đau khổ khỏi cõi Phạm Thiên này, nơi đây vẫn tồn tại vĩnh cữu, bất biến, lúc nào cũng hiện hữu và tuyệt đối, chẳng còn có cảnh chết diễn ra tại đây. Ở đây, cũng chẳng còn cảnh sanh, hay tuổi già, chết chóc và tái sinh. Chẳng còn nơi nào làm nơi Nương Tựa tốt hơn và cao siêu hơn cõi Phạm Thiên này nữa.”

Ôi các chư vị tỳ khưu thân mến, chính Phạm Thiên Baka đã nói với ta như vậy, ta liền bảo ông, ‘Ôi Phạm Thiên Baka, nhà ngươi đã bị Vô Minh mê mẩn. Nhà ngươi hiểu sai về nguyên lý vô thường đối với những gì trường cửu, nhà người đã lẫn lộn những gì là vô thường với những gì hay thay đổi, những gì không tồn tại muôn thuở với những gì tồn tại vĩnh cửu, điều hữu hạn với điều tuyệt đối; điều có khả năng tiêu diệt với điều không thể vĩnh viễn tồn tại trong đó. Vậy thì, trong cõi Phạm Thiên cũng tồn tại rất nhiều chúng sanh, họ đã được sanh ra, chết đi rồi lại tái sanh (có nghĩa là sanh và diệt) ấy thế mà nhà ngươi lại bảo ở đây không có sanh, gi và chết, diệt cũng như tái sanh. Ngay cả khi có một nơi nương tựa nào đó tuyệt vời hơn cõi này, nhưng nhà ngươi vẫn cứ kiên định chẳng còn nơi nương tựa nào tốt hơn nữa. Chính là vì vô minh vẫn choáng ngợp nhà ngươi. Ôi Phạm thiên Baka thân mến, điều này có nghĩa là nhà ngươi vẫn còn bị vô minh làm cho mê mệt, chính vì thế nhà ngươi mới thốt lên những lời lẽ trên.

“Ôi chư vị tỳ khưu, ngay sau khi ta nói xong những lời trên, Māra hay kẻ xấu (có nghĩa là kẻ đã cố gắng khuyên can Đức Phật đừng theo đuổi cuộc sống ly tục nữa (vô gia cư), đã chiếm lấy tôn giả (Pārisajja) Phạm Thiên và thông qua Phạm Thiên đó đã nói với thầy rằng, ‘Xin đừng xúc phạm đến Đấng Chí Tôn Phạm Thiên, ôi sư đạo kia, [8] xin đừng xúc phạm đến Ngài Phạm Thiên đó. Ngài thực sự là một vị Đại Phạm Thiên, ngài chính là Đấng Abhibhū, có nghĩa là đấng cai quản mọi sự, và Đấng Anabhibhūto có nghĩa là đấng chẳng ai trấn áp nổi, là Đấng Aññadatthudaso có nghĩa là nhà tiên tri vĩ đại, Đấng Vasavattī có nghĩa là người có sức mạnh phi thường, Đấng Issaro có nghĩa là Đấng Tối Cao trên thế gian này, Đấng Kattā Nimmitā có nghĩa là người tác tạo ra thế gian này. Tạo ra thế giới nghĩa là Rừng Himavanta, núi Sineru, vũ trụ, đại dương, mặt trăng, mặt trời, ngài còn là Đấng Jeṭṭho có nghĩa là vị trưởng lão, là Sajjitā có nghĩa là người tổ chức vạn vật trên thế gian này bất kỳ ai cũng từ người mà phát ra dưới mọi hình thức -- cho dù là vua chúa, là thầy Phạm Thiên, thương gia, lao động, người đời, hay tỳ khưu, cũng đều do phán quyết của ngài mà ra. Ngay cả ở cõi động vật, cho dù đó có thể là lạc đà, hoặc trâu bò v.v… cũng hoàn toàn thông qua lệnh của ngài mà xuất hiện. Ngài là Đấng toàn năng, là cha muôn loài đã sanh ra và được tái sanh.

(những ý nghĩa các tước vị của Đức Phạm Thiên nói trên được trích từ tập Chú Giải. Đối với những ai muốn đọc đoạn văn Pali bản gốc, chúng tôi xin ghi lại dưới đây như sau: Aññadatthudaso: Sabbaṃ passanti. Vasavattī: Sabbaṃ Janaṃ vase vatteti. Issaro: loke issaro: Kattānimmitāti: Lokassa kattā ca nimmitā ca paṭhavīhimavantasinerucak – kavālamahāsamuddacandimasuriyā iminā nimmitāti dīpeti. Jeṭṭho sajjitāti: Ayaṃ lokasa uttamo ca sajjitā ca, tvaṃ khattiyo nāma tvaṃ brahmano nāma vesso nāma suddo nāma gahaṭṭho nāma pabbajito nāma antamaso oṭṭhopi hoti goṇo hotīti evaṃ sattānam sajjitā ayanti dasseti. Vasī pītā bhūtabhabyānaṃ)

Vị Phạm Thiên (Pārisajja) sau khi nói đoạn liền tiếp lời.

“Ôi tỳ khưu kia, có một số Sa môn và thầy Phạm Thiên trên trần gian này thường hay phê phán và chê bai (giới) đất, nước, khí, lửa, nói rằng toàn bộ những thứ đó chỉ là vô thường, khổ và vô ngã. Họ phê phán và chán ghét các sanh linh (Bhūta), các Chư thiên (Devata), các Đấng Phạm Thiên (Brahmas) và các Đấng Pajāpati (cũng là một bậc Phạm Thiên), nói rằng, toàn bộ con người và loài vật đó chỉ là vô thường, gây khổ và vô ngã. Hiện thời những vị Sa môn và các Thầy B la mơn (Brahmin) đó, sau khi thân xác đã bị tan rã và dứt hơi thở, tất cả đều phải đầu thai vào thể xác thấp hèn hơn, nghĩa là đầu thai vào cõi đau khổ. Ngược lại kẻ nào ca ngợi Đất, Nước, Khí và lửa, các sanh linh (Bhūta), các Chư thiên (Devata) các bậc Phạm Thiên (Pajāpati), cho những thứ đó đều là bất biến và tồn tại vĩnh cửu, sau khi thân xác của họ tan rã và hơi thở bị diệt, sẽ đầu thai thành các thân xác tinh tế hơn, nghĩa là đầu thai vào cõi Phạm Thiên.

“Chính vì thế, ôi chư vị tỳ khưu, ta nói cho các ngài biết, lúc này đây nếu quí vị không muốn khổ, hãy thực hiện như Đức Phạm Thiên nhắc nhở, xin đừng phản lại lời của ngài, bằng không những thất lợi sẽ trút xuống trên đầu các người như kẻ bị đuổi khỏi nhóm Siri (có nghĩa là biểu tượng vinh quang) sẽ đến với ngài, hoặc giống một người đang phải rơi xuống vực thẳm nơi miệng hố đó chẳng có gì để mà bám víu được; cũng chẳng có chiếc gậy nào để cho bạn có thể tựa vào được. Chỉ cần làm những gì được truyền phải làm; xin đừng bao giờ phản lại lời Ngài. Hơn thế nữa, chẳng phải ngài đã nhìn thấy một đoàn các vị Phạm Thiên hay sao, toàn bộ họ đều toát lên những ánh sáng và đang được chỉ dẫn cặn kẽ.”

Sau khi đã dựa vào lời Ma-vương (Māra) tức là Ác Ma (Evil One) đã chiếm lấy được Phạm Thiên. Đức Phật tiếp tục kể một câu chuyện cho các vị tỳ khưu, nói rằng:

“Bấy giờ, Ma-vương (Māra) kẻ ác ma, ta đã biết ngươi quá rõ, đừng tưởng rằng vị Sa môn Cồ Đàm (Gotama) này không biết rõ ngươi đâu, thực vậy chính ngươi là ác ma, các tăng đoàn Phạm Thiên và các vị tôn giả Phạm thiên hoàn toàn đã nằm trong tay nhà ngươi, dưới quyền của nhà ngươi. Rồi nhà người lại ngây thơ mà kết luận rằng kẻ Sa môn này cũng phải dưới quyền nhà ngươi, dưới sức mạnh của nhà ngươi hay sao.

(Rồi Phạm thiên Baka thưa với Đức Phật)

“Ôi thưa Ngài, rõ ràng Ngài không phải khổ. Thế còn những điều bất biến, vững vàng, tồn tại vĩnh viễn, tuyệt đối, không lay chuyển (nghĩa là không phải tái sanh cũng như không phải chết); chẳng bao giờ có được những điều như vậy và ta tuyên bố lại có điều đó nơi cõi Phạm Thiên, Tứ Diệu Đế không hề tồn tại, chẳng có sanh, tử, lão, chẳng có tái sanh mà cũng không có diệt, chẳng bao giờ có bất kỳ nhân duyên nào thoát khỏi khổ hơn là ở đây, chính vì lẽ đó ta tuyên bố như vậy.

“Hơn thế nữa, các vị Sa môn, và các vị Bà-la-môn đã xuất hiện trước khi các người biết được tuổi tác các ngươi là bao nhiêu, các ngươi đã tu luyện khắc khổ được bao lâu, và có nơi nương tựa nào cao vời hơn chốn Phạm Thiên này không. Họ đã biết rất rõ điều này, thế thì tại sao ta phải nói như vậy? Chính là vì (ta biết được) các ngươi không thể tìm được nơi nương tựa nào hơn nơi này, (vậy lúc này nhà ngươi không chấp nhận pháp này) các ngươi sẽ phải chịu nhiều đau khổ.

“ Lúc này đây, ôi các tỳ khưu kia, các ngươi có nuốt đất chăng (nghĩa là tôn trọng, và kính nể cõi đất) hay là các ngươi chỉ kính trọng đất, nước, lửa, khí, các sanh linh (Bhūta) Chư thiên (Devata) các bậc Phạm Thiên (Pājapati) và Đấng Phạm Thiên (Brahma) (tức là kính trọng và tôn thờ những điều nói trên), thế rồi các ngươi lại nói các ngươi đang ở gần ta, trong nhà ta, rồi ta sẽ bảo vệ các ngươi theo kiểu ta muốn.”

Đức Phật tiếp tục nói cho tỳ khưu biết điều ngài trả lời Baka như sau:

“Ta biết rõ điều nhà ngươi nói với ta, ta còn biết cả lý do tại sao nhà ngươi nói nữa cũng như biết rõ định mệnh, khả năng, sức lực và hiện trạng của nhà ngươi nữa.”

Nghe những lời Đức Phật nói như vậy, Baka, Đấng Phạm Thiên, liền hỏi Đức Phật, nói rằng. “ Giờ thì thầy đã nói là thầy biết cả sanh thú, khả năng, sức mạnh và cả hiện trạng của ta, xin thầy cho ta biết ta có được những gì nào.”

Để trả lời Đức Phật lên tiếng,

“Không biết bao nhiêu vũ trụ có mặt trời, mặt trăng chiếu sáng và quay quanh quĩ đạo, chiếu sáng đi muôn phương, thì khả năng của nhà ngươi cũng giãi chiếu ra như thế. Trong vũ trụ đó có biết bao nhiêu chúng sanh, cả thô thiển lẫn tinh tế, kể cả những chúng sanh bị ái dục tràn ngập và những kẻ thoát khỏi điều đó, kể cả một số được sanh ra dưới điều kiện hiện hữu, và những người thuộc các hoàn cảnh khác nhau, cả kẻ ra đi, rồi lại trở lại, Ôi Phạm Thiên (Brahma) ta biết sanh thú và vinh quang của nhà ngươi ra sao. Chính vì thế ta cũng biết được cả khả năng của ngươi, kể cả sức mạnh và hiện trạng của nhà ngươi nữa.

“ Ôi Phạm Thiên Baka giờ đây còn có ba cõi thiên khác nữa vượt quá cõi đời này, mà nhà người không được biết đến, những ta biết và còn thấy rất rõ nữa là đàng khác. truớc tiên là cõi được gọi là Quan Âm Thiên (Abhassara). Thực chất nhà ngươi được sinh ra ở đó, trong số những thân xác cõi trời đó. Nhưng từ khi nhà ngươi đã thoát ra khỏi cõi đó từ bấy lâu nay và tái sanh ra tại nơi đây, nơi Cõi Đại Phạm Thiên (Mahābrhama) này, tới đây đã quá lâu rồi, nhà người đã quên nơi ở xưa của mình và không thể hình dung ra nơi đó được nữa và nhà người cũng chẳng nhìn thấy nơi đó bao giờ. Nhưng ta biết và ta đã nhìn thấy nơi đó. Ôi Pham Thiên Baka, ngay cả ở mức độ này phép thần thông của ta vượt trội hơn hẳn của nhà người. Chính vì thế cớ sao nhà ngươi lại suy nghĩ ta thua kém nhà ngươi? Thực tế, chính ta đã có phép thần thông vượt trội hơn hẳn nhà ngươi rất nhiều.

“ Hơn thế nữa, còn có những cõi thiên đường Biến tịnh thiên (Subhakiṇha)Quảng quả thiên (Vehapphala) mà nhà ngươi chẳng hề biết đến, nhưng ta lại biết rất rõ và đã được biết thực chất nhà ngươi cũng được tái sanh ra ở đó, trong đoàn ngũ những người thần tiên, Nhưng vì nhà ngươi đã thoát ra khỏi cõi đó hàng đại kiếp qua và đã được tái sanh ra tại đây (trong cõi Cõi Đại Phạm Thiên (Mahābrahma) này đã từ lâu nhà ngươi đã quên khuấy đi mất chỗ ở cũ đó đi và không thể hình dung ra nơi đó nữa, không thể nhìn thấy nơi đó. nhưng ta lại biết và nhìn thấy những cõi phạm thiên đó, ngay cả ở lãnh vực này, ôi Phạm Thiên Baka. Phép thần thông của ta vượt trội hơn của nhà ngươi biết mấy. Chính vì thế, làm sao nhà ngươi lại dám nghĩ ta kém nhà ngươi ở chỗ nào? Thực vậy, chính ta đã có được sức mạnh thần thông vượt trội hơn hẳn nhà ngươi.

“Ta còn nhiều điều để nói cho nhà ngươi biết, Ôi Phạm Thiên Baka. Giới như địa, thủy, hỏa và khí là gì vậy và làm thế nào những giới đã sanh ra ta cũng biết được cả những điều đó thực chất chúng là như thế nào. Điều đó gồm cả sanh linh (Bhuta) Chư thiên (Devata), đấng bậc Phạm Thiên (Pajāpati) và các Đấng Phạm Thiên (Brahma) khác nữa. Còn kể cả Abhibhūbrahma (tvn?), nổi tiếng vì đã trổi vượt hơn tất cả. nó lại gồm toàn bộ những gì hiện hữu trên cõi đời này và toàn bộ các cõi khác. Toàn bộ những thứ đó ta đã hình dung ra thực sự là gì. Tuy nhiên, sau khi biết được những điều đó ta không hề gắn bó với chúng ta cũng chẳng tỏ ra thích thú gì cả. Bất kỳ điều gì cả.

“ Ôi Baka, còn nhiều thứ khác nữa, những thứ chính mắt ta đã được chứng kiến. Đó là cõi vô biên (Ananta) (có nghĩa là những gì tồn tại tới muôn đời, vô thủy vô chung, vô sinh và vô tử) đó chính là Sabbatopabham (có nghĩa là phát sáng ra tứ phía, chiếu sáng mọi nơi mọi lúc) trong cõi đó chẳng có đất, nước, lửa và khí. Cũng không có sanh linh (Bhuta) Chư thiên (Devata), đấng bậc Phạm Thiên (Pajāpati), Quang Âm Thiên (Abhassara) Biến tịnh thiên (Subhakiṇha), Quảng quả thiên (Vehapphala), và cũng chẳng có Abhibhū. Thực chất chẳng có gì trong đó cả, trong đó ta đã nhận ra hoàn toàn hiện thực. Ở mức độ này thần thông (Abhiññā) của ta vượt hơn hẳn của nhà ngươi. Baka thân mến, làm sao nhà ngươi lại nghĩ ta thua kém nhà ngươi? Thực chất phép thần thông (Abhiññā) của ta vượt trội hơn của nhà ngươi biết mấy.”

(sau khi Đức Phật dứt lời thì Phạm Thiên Baka đã thách đấu tay đôi với thần thông của Đức Phật, nói rằng,)

“Thôi được rồi, vì thầy đã nói như vậy, đừng để cho lời thầy trở thành trống không, tẻ nhạt và vô dụng. Tôi sẽ biến mất để thầy không còn thấy được tôi trong giây lát.”

Rồi Đức Phật lại nói, “Thử làm coi, Ôi Phạm Thiên Baka, nếu nhà ngươi có khả năng làm được điều đó.”

Và thế là Phạm thiên Baka lại thốt lên những lời sau.

“Tôi sẽ biến khỏi trước sự hiện diện của vị Sa môn Cồ Đàm (Gotama)” Nhưng. cho dù cố gắng hết sức, hắn vẫn không thể nào biến mất được.

Thấy vậy, Đức Phật liền bảo Phạm Thiên Baka.

“Đời là thế (có nghĩa là vì nhà ngươi không thể làm cho mình biến mất khỏi ta) thế thì ta sẽ làm điều đó cho nhà ngươi coi.”

Nghe vậy, Phạm Thiên Baka lên tiếng, “Nếu ngài làm được điếu đó, ắt hẳn ngài là đấng không phải đau khổ, ôi mong rằng được như vậy.”

Tiếp theo đó, Đức Phật đã ra phép thần thông và biến mất trước mặt Phạm Thiên Baka và trước sự chứng kiến của cộng đoàn Tăng Già. Tất cả họ chỉ nghe được tiếng ngài nói, nhưng không thể nhìn thấy ngài ở đâu cả. Chính trong lúc tàng hình Đức Phật đã thốt lên những kệ như sau:

“Ta đã biết rõ những mối nguy hiện hữu (Bhava) và toàn bộ những hiện hữu (Bhava) ta đã được giải thoát. Những kẻ nào muốn tìm phi hữu (vibhava) cũng không thể thoát khỏi con mắt của ta.

“Chưa bao giờ ta thấy một hiện hữu (Bhava) ta cũng chẳng thấy sung sướng vì đã làm được như vậy, ta cũng chẳng chấp thủ với bất kỳ hiện hữu (Bhava) nào.”

Vào lúc đó Phạm Thiên Baka, tập hợp các chúng sanh Phạm Thiên và nhóm Phạm Thiên Pārisajja cảm thấy sợ hãi và đầy kinh ngạc trước Đức Phật nghĩ rằng, “Ôi các bạn, thật là tuyệt vời, thật sửng sốt biết bao, chưa bao giờ chúng ta được chứng kiến hay được nghe biết tài năng của bất kỳ ai mãnh liệt và vinh quang tương tự ngài Sa môn Cồ Đàm (Gotama) như vậy. Người xuất xứ từ bộ tộc Thích Ca, và là người đã tận diệt đựơc hết mầm mống các loại hiện hữu (Bhava) ở mọi mức độ.”

(Nhưng Ma-vương (Māra) kẻ độc ác lại nhập vào một Phạm Thiên Pārisajja khác và nói với Đức Phật rằng)

“ Giờ đây, nếu ngài đã thể hiện được như vậy và hoàn toàn giác ngộ như vậy, xin ngài đừng khuyên nhủ bất kỳ ai, cũng đừng cố công thuyết pháp, cũng đừng tỏ ra thích thú bất kỳ vị tỳ kheo hay đồ đệ cả. lý do làvì trước mặt ngài các vị Sa môn và các thầy Bà-la-môns thường tự coi mình là A-la-hán, là những người giác ngộ trên cõi đời này. Họ thường khuyên nhủ người khác, thuyết pháp và tỏ ra ưu ái đối với các vị tỳ khưu và đồ đệ của mình. Nhưng sau khi thân xác bị tàn rữa và tắt hơi thở họ thường phải tái nơi cõi thấp hèn (tức là cõi khổ.) Trong khi đó các vị Sa môn và các thầy Bà-la-môn không tuyên bố như vậy, đồng thời không tỏ ra quá ưu ái với các đồ đệ và các vị tỳ kheo lại được tái sanh với thân xác tinh tế. (có nghĩa là nơi cõi Phạm Thiên) sau khi thân xác của họ tàn rữa và trút hơi thở cuối cùng.

Điều này là có thực, tôi có thể trình bày với ngài như vậy: mong rằng Ngài hãy hài lòng với điều ít ỏi của mình (có nghĩa là đừng thuyết pháp cho ai cả) nhưng hãy nhập thiền cả ngày đêm để được hưởng niềm hạnh phúc bao la của mình. Đó chính là một hành vi chí thiện. Ngài không bao giờ phải đau khổ xin đừng thuyết pháp cho ai và hãy thực hiện những việc công đức.

(trả lời những yêu cầu của Ma-vương (Māra) Đức Phật nói)

“Hỡi Ma-vương (Māra) kẻ xấu xa, giờ đây xin nhà người đừng nghĩ là Sa môn Cồ Đàm (Gotama) này không hay biết gì đến nhà ngươi, là kẻ xấu xa. Nếu ngươi thực sự có ý đồ nghiêm túc muốn điều tốt lành cho chúng sanh, chắc hẳn ngươi đâu có nói với ta những lời như vậy. Chính vì nhà ngươi chẳng muốn điều gì tốt cho bất kỳ ai, nên ngươi mới nói với ta như vậy. Hơn thế nữa ngươi biết rõ nếu Sa môn Cồ Đàm (Gotama) này giảng Phật Pháp cho chúng sanh, thì những người này sẽ vượt xa khả năng và những gì ngươi đã đạt được. Chính vì vậy mà ngươi đã nói với ta như thế.

“Ngoài ra, những người nhà người liệt kê là thích cho mình là A-la-hán nhưng lại không thuyết pháp cho bất kỳ ai thì họ chẳng phải là A-la-hán, cũng như chưa phải là người hoàn toàn giác ngộ được.

“Ôi Ma-vương (Māra), kẻ dối trá, ngươi nên biết rằng ta có diễn giảng Phật Pháp hay không, ta có khuyên can các đồ đệ hay không, thì lúc nào ta cũng vẫn luôn chỉ là ta mà thôi.(chẳng có gì phải gọi là thích cả.) tại sao vậy? Đó là vì bất kỳ Lậu Hoặc (Āsava) nào có thể làm cho ta trở nên dơ bẩn, tạo ra nhiều hiện hữu (Bhava) hơn và xáo động. Kết quả là đau khổ phát sinh vì phải tái sanh nơi khổ cảnh, ta đã tuyệt đối tận diệt tham đến tận gốc, tống khứ đến tận nền móng hiện hữu, tước đoạt khỏi tái sanh những điều đó giống như cành lá thốt nốt, khi bị cắt ngọn không thể tăng trưởng được nữa.”

Cũng cần lưu ý là Đức Phật đã diễn giảng kinh này không do yêu cầu của Ma-vương (Māra), kẻ độc ác, nhưng qua lời yêu cầu (hay là một lời thách thức.) của Phạm Thiên Baka. Chính vị vậy kinh này được đặt tên là Brahmanimanta-nika (tvn?), là kinh được diễn giảng theo lời yêu cầu từ phía Phạm thiên.

Những bài tường thuật có liên quan đến Phạm Thiên Baka đã được Trưởng lão Buddhaghosa kể lại trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) để làm bằng chứng phép thần thông Tirobhāvapaṭihāriya, tức phép lạ (thần thông) người không thể nhìn thấy người thực hiện. Những gì thấy được cho là chính hiện tượng phép lạ (thần thông) mà thôi. Đây chính là điều các chúng sanh Phạm Thiên có thể nghe được tiếng của Đức Phật nhưng không thể nhìn thấy người, tuy nhiên câu chuyện kể trên quá ngắn những người chưa quen hiện tượng đó có thể hiểu được một cách tường tận. Chính vì thế tôi đã trích toàn bộ câu chuyện trong Kinh Pali nhằm giúp cho các độc giả muôn biết thêm nhiều chi tiết khác nữa.

Những Điểm Cần Cân Nhắc

Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều điểm trong Kinh có thể chuyển tải cảm nghĩ hoài nghi hay không chắc chắn nơi các vị học giả. Một trong những trường hợp như vậy chính là khi Kinh kể lại Đức Phật thình lình biến mất khỏi gốc cây cổ thụ Sāla trong khu rừng Subhāga, gần thành phố Ukkaṭṭhā và tức thời lại xuất hiện nơi cõi Phạm Thiên (Brahma). Điều này có một vấn đề nổi lên ở đây: liệu Đức Phật đến cõi đó bằng thân xác cõi trời của ngài hay qua việc di chuyển thân xác của ngài đến đó mà thôi? Chúng ta chẳng tìm thấy có ý kiến nào nêu ra trong các tập Chú Giải cho thấy Ngài đến cõi Phạm Thiên bằng cách nào. Nhưng căn cứ vào Kinh trích trong Tương Ưng Bộ Kinh (Saṃyutta nikāya) thuộc bộ Đại Phẩm Kinh (Mahāvāravagga) (cuốn 19 trang 363 số 1208), có trích một lời tuyên bố của chính Đức Phật cho thấy, nếu Ngài muốn thực hiện điều đó bằng cách di chuyển thân xác của Ngài tới Cõi Phạm Thiên điều đó không khó khăn gì. Tiếp theo sau đây là bài tường thuật liên quan đến Kinh đó:

Đức Phật di chuyển Vào cõi Phạm Thiên với thân xác của ngài

Đã có thời Đức Phật còn cư ngụ tại Khu Rừng Kỳ Viên (Jeta) do một người giàu có ở Anāthapiṇḍdika dâng tặng, gần thành phố Sāvatthī, Trưởng lão Ānanda, tiến lại gần Đức Phật, tỏ lòng cung kính và ngồi vào đúng chỗ dành cho ngài ngay cạnh bên Đức Phật. Rồi ngài hỏi Đức Phật nói rằng.

“ Tâu Đức Thế Tôn, ngài có thể dùng phép thần thông để tiến vào cõi Phạm thiên qua hóa tâm thông hay không?” (có nghĩa là thân thể cõi trời)

Đức Phật trả lời, “Ôi Ānanda, đúng vậy, ta có thể làm được điều đó”

Trưởng lão Ānanda hỏi thêm, “ Tâu Đức Thế Tôn, ngài có thể hóa phép thần thông để tiến vào cõi Phạm Thiên bằng chính thân xác được sanh ra bằng tứ đại được không? (nghĩa là thân xác thô thiển của ngài).

Ānanda kính mến, ta cũng có thể làm được như vậy, dùng phép thần thông để tải thân xác của ta đến đó.”

Đức Phật tiến hành giải thích cho Trưởng lão Ānanda như sau:

Ānanda thân mến, bất cứ khi nào ta kiến lập tâm, hay làm như vậy trên thân xác của ta, do dó được an lập trong niềm vui vô tận Sukhasaññā (lạc tưởng) và Lahusaññā (khinh tưởng) nơi thân xác, thì lúc đó thân xác của ta trở nên nhẹ hơn, trở nên linh hoạt hơn, dễ sai khiến hơn, tỏa sáng nhiều hơn bình thường. Giống như một thanh sắt được tôi nóng suốt ngày trở thành nhẹ hơn, dễ uốn hơn và dễ điều khiển hơn là bình thường.

“Hay nói một cách khác, bất kỳ lúc nào ta kiến lập thân xác dựa trên tâm và kiến lập, tâm trên thần và an lập lạc tưởng là khinh tưởng thuộc về thân ta trở nên sảng khoái hơn bình thường, lúc đó thân xác của ta sẽ dễ dàng bay bổng lên, điều này giống như một nắm bông, có thể dễ dàng bay bồng bềnh trên không.”

Đoạn trích Kinh Phật trên đây có thể dùng để khẳng định một sự thật đó là: Đức Phật có khả năng tiến vào cõi Phạm Thiên như ý ngài muốn hoặc với thân xác cõi trời (astral body) hay tải thân xác thô thiển của ngài. Tuy nhiên, còn một vài điểm liên quan cần được làm rõ thêm. Những chi tiết này sẽ được giải thích chi tiết hơn trong chương đề cập đến vấn đề Thần Thông hay các Thần Túc Thông (Iddhividhi) này, nói trong đoạn “một Thiền sinh (Aspirant) với Tuệ Giác nhập thiền định vững vàng, được thanh tịnh v.v… có thể di chuyển vào cõi Phạm Thiên hoặc với thân xác cõi trời hay tải thân xác của mình vào đó.

5. Tirokuḍḍādigamanāpātihāriya (Đi Xuyên Qua Tường v.v…)

Đoạn văn Pali xác định loại phép lạ (thần thông) này như sau:

Tirokuḍḍam tiropākāraṃ tiropākāraṃ asajjamāno gacchati seyyathāpi akāse.”

(Một tỳ khưu với khả năng thần kỳ này) có thể đi xuyên qua các bức tường hay các tấm liếp ngăn hay đi xuyên qua núi mà không bị cản trở, giống như bay ngang qua không khí vậy.)

Việc giải thích dưới đây được trích từ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) :

Một chư vị tỳ khưu trang bị cho mình phép thần thông này, lại muốn nhập thiền định bằng phương thế này thông qua Niệm đề mục hư không biến xứ (Ākāsakasiṇa) hướng tâm của mình vào cõi hư không cho đến khi đạt đến được Thiền Jhana bậc bốn, sau đó thoát khỏi hiện trạng thiền Jhana và nhắm suy tư của mình vào một bức tường, một ngọn núi người đó muốn đi xuyên qua, kể cả núi Sineru hay toàn vũ trụ nữa, sau đó chư tỳ khưu lại quyết tâm biến bức tường và ngọn núi thành không khí. (giống như thứ khí ngài đã nhập tâm), giai đoạn tiếp theo là bức tường hay ngọn núi ngài muốn đi xuyên qua sẽ trở nên trống rỗng đối với ngài và như vậy ngài có thế vượt qua không bị trở ngại nào cả.

(Lưu ý: Ta thấy ở đây có sự sóng đôi, trong trường hợp này là chúng sanh Hóa Sinh (Opapatika) (tức là vô hình) cũng có thể đi xuyên qua được các bức tường một căn phòng mà không gặp trở ngại nào, cho dù ta đi ra hay đi vào căn phòng đó, và bức tường có thể làm bằng gỗ, gạch hay sắt, có kích cỡ dầy đến cỡ nào đi chăng nữa. Điều này có thể so sánh với sóng âm thanh đi xuyên qua bất kỳ vật thể rắn chắc nào mà không gặp bất kỳ cản trở nào.)

Tuy nhiên, không có sự giải thích chi tiết nào ở đây về những điểm trong câu hỏi có thể gây hoài nghi đối với những nhà tư tưởng hiện đại ngày nay như sau:

1. Liệu bức tường hay bức liếp đó có tan biến thành không khí do đó ta có được một không gian trống rỗng cho phép tỳ khưu vượt qua hay không?

2. Nếu bức tường có tan biến thật, thì chỉ một phần hay toàn bộ bức tường đó, dành cho tỳ khưu một khoảng trống đủ để ngài chui qua hay toàn bộ bức tường đó tan biến đi ngay tức khắc.

3. Có ai chứng kiến được tỳ khưu đi xuyên qua bức tường chăng? và khi đã đi xuyên qua phía bên kia mà bức tường vẫn còn y nguyên như cũ hay không?

4. Hoặc giả bức tường chỉ tan biến đi trong chốc lát sau khi tỳ khưu bước xuyên qua rồi bức tường trở lại tình trạng như trước?

Đây là những thắc mắc rất hay những người hoài nghi đích thực có thể nêu lên. Tuy nhiên ngài Hòa Thượng Buddhaghosa tác giả Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) lại đưa ra giải thích như sau:

Đối với chư vị tỳ khưu đạt được phép thần thông này, bất kể lúc nào ngài muốn đi xuống (cho dù là xuống nhà ở tầng dưới hay nhào vào lòng đất rồi lại trồi lên chỗ ngài dự định sẽ vượt qua, có thể trở thành một cái lỗ trống dành chỗ cho ngài đi qua. Mặt khác, nếu ngài muốn trồi lên, ngài cũng có thể làm được tuần tự như vậy.(ví dụ đã được được kể lại về bốn vị Sa-di (Samaṇera) A-la-hán đã bay lên mái nhà. Câu chuyện được trích trong Phẩm Bộ kinh (Brāhmaṇavagga) thuộc tập Chú Giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada). Những đoạn viết bằng tiếng Pali sau đây khẳng định khả năng này để làm rõ ý nghĩa những gì đã đề cập đến ở trên.

Adho otaritukāmassa uddhaṃ vā ārohitukāmassa susiro hoti, Vinivijjhivā gantukāmassa chiddo. So tattha asajjamāno gacchatipi.

Chính vì thế ta biết được bằng cách nào chư vị tỳ khưu đạt được phép thần thông loại này có thể đi xuyên qua một bức liếp, một bức tường hay ngay cả đi xuyên qua một ngọn núi hoặc nhào xuống mặt đất rồi lại trồi lên bất kỳ lúc nào theo ý ngài muốn mà không bao giờ bị cản trở.

Trưởng lão tác giả Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) cũng trích dẫn một đoạn trong Kinh Pali như sau:

Cứ sự thường khi chư vị tỳ khưu đạt được khả năng thần thông này và đã thành công trong việc nhập đề mục hư không biến xứ (Akāsakasiṇa) bất kỳ lúc nào ngài liên tưởng đến điều gì đó ngăn cản bước đi của ngài, cho dù là một bức liếp, một bức tường, hay một ngọn núi, và nhất quyết dùng khả năng của mình muốn biến thứ đó thành khí, ngay lập tức chúng sẽ biến thành không khí. Chính vì thế ngài có thể đi xuyên qua mà không bị cản trở bước tiến. Điều này giống như một người bình thường, không có khả năng tạo phép thần thông này có thể đi ngang qua một chỗ trống không mà không bị rào dậu ngăn cản gì cả.

Bằng cách này vị tỳ khưu đạt được khả năng thần thông đó đã đạt đến năm khả năng Vasī (hay thuần thục liên quan đến thiền Jhana (như khả năng tụ rút vào nhập thiền hay tự trồi ra khỏi hiện trạng đó.) có thể đi xuyên qua một bức liếp, một bức tường hay ngay cả đi xuyên ngọn núi và rồi lại xuất hiện ở phía bên kia mà không bị cản trở gì giống như đi ngang qua một chỗ trống không.

Dưới đây là câu chuyện về phép lạ (thần thông) được gọi là Tirokuḍḍādigamana (phép lạ (thần thông) dấu mình không bị phát hiện) như đã được kể lại trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) như sau. Tuy nhiên không có ví dụ nào kể lại ai là người thường thực hiện phép lạ (thần thông) này. Chính vì thế rất có thể đây chỉ là phỏng đoán- từ biến cố này khi trưởng lão Moggallāna nhào xuống lòng đất và rồi lại trồi lên ngay tại chân Đức Phật đang khi ngài diễn giảng cho mẹ ngài tại cõi thiên đàng Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa) câu chuyện cho rằng một sự trình diễn như vậy có thế được kể là phép lạ (thần thông) thuộc loại này. Rất có thể tại sao ngài không bận tâm dẫn chứng bất kỳ một ví dụ nào đặc biệt đốivới phép lạ (thần thông) này.

6. Phép lạ (thần thông) nhào vào lòng đất rồi lại trồi lên (Paṭhavi-ummujjanimmuja pāṭihāriya)

Trích đoạn Pali kể về phép lạ (thần thông) này như sau:

Paṭhaviyāpi ummujjanimmujaṃ karoti seyyathāpi udake” nghĩa là một vị tỳ khưu đạt được phép lạ (thần thông) này, có thể nhào vào lòng đất rồi lại trồi lên khỏi đó nếu như ngài muốn thế.”

Tuy nhiên cần lưu ý ở đây là đoạn văn viết bằng tiếng Pali trên lại để động tác ‘trồi lên’ trước rồi mới tới động tác ‘lặn xuống’. Bản dịch ở đây chỉ muốn khớp với lẽ thông thường của những con người bình thường, muốn kết luận là động tác “nhào xuống phải được thực hiện trước động tác ‘trồi lên’

Tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) giải thích loại phép lạ (thần thông) này như sau:

“Một chư vị tỳ khưu muốn thực hiện phép lạ (thần thông) này phải nhập thiền Jhana đề mục thủy biến xứ (có nghĩa là Āpokasiṇa) ngài phải thực hiện được điều này khi đã nhập sâu vào thiền Jhana. Ngài phải xác định được lòng đất ngài muốn nhào xuống và rồi thực hiện quyết tâm. Tập trung tâm vào vùng đó (với sức mạnh thiền Jhana) để biến chỗ đó thành nước. Kết quả là, vùng được xác định đó ngay lập tức trở thành nước.”

Sau khi đã mô tả cách thức, cho thấy làm thế nào ngài thực hiện được điều đó Trưởng lão tác giả lại đưa ra một đoạn khác trích trong Kinh Pali. (Khu. Pa. 31/593) để củng cố cho lời tuyên bố của ngài như sau:

“ Một vị tỳ khưu đạt được thiền chứng (samāpatti). (một hiện trạng thiền bậc cao) dựa trên nước có thể biến đổi toàn bộ chỗ ngài muốn nhào xuống bằng cách làm quyết tâm, dựa vào sức mạnh hành thiền Jhana, muốn khu vực đó biến thành nước.

Chính vì vậy nên ngài có thể nhào xuống đó như nhẩy xuống nước vậy và rồi lại trồi lên sau đó giống y hệt như người không đạt được khả năng làm phép lạ (thần thông) đó nhẩy xuống nước rồi lại trồi lên.”

Còn có nhiều giải thích mô tả nhiều kết quả phép lạ (thần thông) này.

“Một vị tỳ khưu đạt được khả năng thực hiện phép lạ (thần thông) dựa trên thiền chứng (samāpatti) dựa trên nước ngài ngoài khả năng nhào xuống lòng đất và rồi lại trồi lên, ngài còn có khả năng biến đất trở thành bất kỳ loại chất lỏng nào theo ý ngài muốn để uống hay dùng vào những mục đích khác. Hơn thế nữa nếu ngài muốn biến nước thành loại sữa ngon, dầu ăn, mật ong, nước mía hay bất kỳ loại chất lỏng nào, ngài có thể làm như vậy theo như ý muốn của ngài. Bất kỳ điều gì “được tạo ra” hay biến đổi từ đó trở thành điều này điều nọ như trong thực tế (tức là không chỉ có ảo giác hay ảo ảnh do kết quả của khả năng thần thông.) Đây chính là đồ vật thực sự thuộc loại đó và có thế dùng được. Trong trường hợp sữa hảo hạng giống y hệt như sữa thực sự được chế biến từ các loại sữa khác.

Một hiệu quả phụ khác, có thể nói như vậy, cũng được đề cập đến – đó là ngài có thể để cho nước đó làm ướt hay ảnh hưởng gì, tức là khô ráo như cũ tuỳ theo ý ngài muốn, kể cả nước được tạo nên để sử dụng hay cả vũng nước ngài nhào xuống đó.

Có một số vấn nạn mang nhiều ý nghĩa tương tự như câu hỏi liên quan đến loại phép lạ (thần thông) vừa kể (tức là loại thứ năm) ở đây tác giả đã tuyên bố như sau.:

“Mặt đất ngài quyết định biến thành nước phải là loại nước dành riêng cho ngài mà thôi. Đối với những người khác thì vẫn chỉ là đất cứng như bình thường. Bất cứ ai cũng có thể bước lên được hay có thể vào đó bằng bất kỳ cách nào.”

Rồi lại còn một đoạn bổ sung không kém phần hấp dẫn. Theo tác giả, nếu ngài có thể theo ý muốn, biến vùng đó thành nước để phục vụ người khác, ngài phải xác định được thời gian ngài muốn thực hiện điều đó kéo dài trong bao lâu. Sau đó nước lại phải biến thành đất trở lại như cũ.

Còn có đoạn bổ sung khác nữa đó là: nước được biến trở lại thành đất trong vùng được xác định bằng quyết tâm của ngài, không phải là bất kỳ loại nước nào hiện có trong vùng đó như nước trong hồ hay trong chai trong lọ đâu. Loại nước đó không thể biến thành đất được.

Đối với những ai muốn có bằng chứng về đoạn này, tôi xin trích đoạn văn Pali viết về điều này như sau:

“Tasseva ca sa paṭhavī uakaṃ hoti, avasesajanassa paṭhavīyeva. Tattha manussā pattikāpi gacchanti, yānādīhipi gacchantipi kasikammadīhipi karontiyeva. Sace panāyaṃ tesampi udakam hotuti icchati, hoti yeva. Parichinakālaṃ atikkamitvā yaṃ pakatiyā ghaṭotalākādīsu udekaṃ taṃ ṭhapetvā avasesaṃ parichinnaṭṭhānaṃ paṭhavītyeva hoti.” (Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga 2/232)

Ta không thấy đề cập đến một ví dụ nào về loại phép lạ (thần thông) này. Nhưng biến cố khi Trưởng lão Moggallāna nhào xuống lòng đất và rồi lại nổi lên ngay dưới chân Đức Phật –điều này đã được một đám đông chứng kiến, như đã được khẳng định trong tình tiết kể về Phép song thông (nghĩa là phép lạ (thần thông) Đức Phật hiện diện ở hai nơi cùng một lúc), dùng để xác định lại sự kiện này như là một ví dụ điển hình nhất trong trường hợp này.

7. Abhijjamānodakagamana Pāṭihāriya (Đi Bộ Trên Nước Không Làm Xáo Trộn Mặt Nước)

Những đoạn tiếng Pali như là lời Đức Phật nói liên quan đến loại phép lạ (thần thông) này như sau:

“Udakepi abhijjamāne gacchati seyyathāpi paṭhaviyam”

“ Một vị tỳ khưu đạt được khả năng có thể đi trên mặt nước giống như đi trên mặt đất, không làm khuấy động mặt nước.”

Dưới đây là lời giải thích được trích từ tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga)

“Một chư vị tỳ khưu muốn đi trên mặt nước mà không bị chìm trong nước.(chân không chạm mặt nước) cần phải nhập thiền Jhana dựa trên đề mục địa biến xứ (paṭhavīkasiṇa) (cho đến khi ngài có được tầm nhìn rõ ràng về điều này và có khả năng kiểm soát được việc mình làm. Khiến cho nước phải tuân theo vị tỳ khưu ấy như ý muốn. Sau khi đã thoát ra khỏi Thiền Jhana.tỳ khưu sẽ gắn tâm mình vào mặt đất và quyết tâm.” Mong rằng mặt nước trong vùng trở nên cứng như đất, thế rồi mặt nước sẽ chuyển đổi và vâng y theo lời của vị tỳ khưu đó khiến cho ngài có thể bước đi trên đó giống như bước đi trên mặt đất vậy.”

Đoạn giải thích này lại được kèm theo những đoạn trích trong Kinh Phật (Khu. Pa. 31/593) khẳng định rằng:

“Một vị tỳ khưu nhập Thiền Chứng (samāpatti) dựa trên cơ sở đất biến xứ, gắn tâm ngài lên mặt nước và quyết tâm, “Mong rằng mặt nước trong vùng này trở nên cứng như đất” nước sẽ tuân thủ ý muốn của tỳ khưu, chính vì thế ngài đã bước đi trên đó mà không làm xáo trộn mặt nước. Điều này đã diễn ra giống như một người bình thường không có phép thần thông nhưng lại có thể bước trên mặt đất mà không tạo ra bất kỳ rạn nứt nào trên đó.”

Dưới đây còn có một lời giải thích được đưa ra như sau:

“Vị tỳ khưu này còn có khả năng không những bước đi trên nước, nhưng còn lưu lại trên đó trong bất kỳ tư thế nào, như ngồi hay nằm trên đó.”

“ Ngoài ra ngài còn có thể biến nước thành pha lê, thành vàng, thành một ngọn núi cao hay là một ngọn cây, hoặc thực tế thành bất kỳ điều gì ngài muốn. Ngài chỉ cần thực hiện quyết tâm và nước sẽ phản ứng lại theo như ý ngài muốn.” Đoạn văn Pali mô tả lại sự việc này như sau: Na kevatañca paṭhavīmeva maṇisuvannapabbatarukkhddīsupi yaṃ yaṃ icchati taṃ vuttanayeneva āvajjitvā adhiṭṭhāti yathadhiṭṭhitameva hoti, -- (trích trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) 2/232)

Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) cũng mô tả rằng:

“Nước được biến đổi thành đất cứng thông qua phép thần thông đó chính là đất chỉ dành cho vị tỳ khưu mà thôi. Đối với những người khác thì mặt nước vẫn y như cũ. Mặt nước đó vẫn có thể là chỗ các sinh vật sống trong đó như cá và rùa, có thể bơi lội cách thoải mái như trước. Có một số loài chim có thể bơi lội trên mặt nước như chim nước (một loại chim dùng để săn bắn) vẫn có thể đi rong ruổi trong đó hoặc lặn xuống như bình thường.”

“Tuy nhiên, nếu vị tỳ khưu với khả năng thần thông như thế lại muốn biến nước cho cả những người khác nữa, ngài cũng có thể làm được như vậy. Nhưng ngài phải xác định việc này kéo dài trong bao lâu mặt nước cứng như thế. Sau thời gian ấn định, thì mặt đất được “tạo thành” như vậy sẽ trở lại tình trạng ban đầu. Những đoạn viết bằng tiếng Pali như sau: Tasseva ca taṃ udakam paṭhavī hoti sesajanassa udakameva. Macchakacchapā ca udakākākadayo ca tathāruciṃ vicaranti. Sace panāyaṃ aññesampi manussānaṃ taṃ paṭhavī kātuṃ icchati. Karotiyeva. Paricchinnakālātikkamena pana udakameva hoti. – Trích Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) 2/233

Ngài Trưởng lão Moggallāna muốn thực hiện một phép lạ (thần thông) biến đổi mặt đất, nhưng đã bị Đức Phật ngăn lại và không cho phép.

Đến đây lại nổi lên một vấn nạn đang được nghiên cứu phát xuất từ mối nghi ngờ chính đáng của một số người sợ rằng, nếu như nước trong vùng đó biến thành đất cứng để thực sự có thể bước đi trên đó, thì điều gì sẽ xảy ra đối với những động vật sống trong nước? Liệu chúng có thể bị do mặt đất cứng lại hay không? Ta không tìm thấy câu trả lời nào cho câu hỏi này, nhưng có một đoạn trích trong Kinh Phật Đại Phẩm (Mahāvagga 1/11) ở mức độ có thể soi chiếu ánh sáng cho vấn đề này. Bài tường thuật trong Kinh Phật có nội dung như sau:

Một lần kia, đang lúc Đức Phật còn lưu lại trong thời gian An Cư Kiết Hạ tại thành phố Verañjā cùng với một số vị tỳ khưu rất đông, tổng số lên tới (khoảng) năm trăm vị. Điều này đã khiến cho Đức Phật và các vị tỳ khưu khác gặp rắc rối liên quan đến thực phẩm dùng hàng ngày. Có rất ít người có khả năng dâng cho các tỳ khưu của bố thí vì dân chúng chỉ có đủ thực phẩm cho chính họ mà thôi. May mắn thay, cuối cùng thì cũng có một nguồn bố thí được dành cho các vị đó tuy nhiên có hơi ít ỏi một chút. Nguồn này là do đoàn thương gia buôn bán ngựa đến từ thị trấn Uttarāpatha, mang theo với họ khoảng năm trăm con ngựa để bán. Họ đang tìm chỗ ở qua mùa mưa tại thị trấn Verañjā và tiến hành dâng cho mỗi vị sư khoảng độ bốn vốc gạo đỏ (thuộc loại soàng nhất) bất cứ khi nào các vị tỳ khưu không thể xin được của bố thí. Họ có thể chạy đến chuồng ngựa của những thương gia buôn ngựa tại đó họ nhận được phần lương thực dành cho mỗi người. Loại gạo này phải đem giã trong một cái cối và lấy chày giã nát ra trước khi ăn. Chính vì gạo quá cứng, do thuộc chất lượng xấu. Chính Trưởng lão Ānanda cũng phải giã gạo bằng cách đó và dâng cho Đức Phật sử dụng. Ngài cũng đã tham gia khất thực giống ý như các tỳ khưu khác.

Nhìn thấy điều kiện khốn khổ xảy ra cho Đức Phật và các vị tỳ khưu, Trưởng lão Moggallāna tiến lại gần Đức Phật và đề nghị với người, nói rằng,

“Tâu Đức Thế Tôn, lúc này đang một trận đói xảy ra tại thị trấn Verañjā. Dân chúng đang trong cảnh cực kỳ khổ sở. Các bộ xương (những người chết đói) có thể tìm thấy khắp nơi. Gạo cho dân chúng được phân phối theo định lượng. Điều này đã trở thành cực kỳ khó khăn cho các tỳ khưu đi khất thực có thể kiếm được những gì dân chúng dâng tặng. Nhưng dưới mặt đất lại có rất nhiều loại vật nhỏ như là ong. Chúng sạch sẽ. nếu ngài cho phép, Ôi Đấng Thế Tôn, con sẽ lật mặt đất lên để các tỳ khưu có được thức ăn đầy chất lượng.”

“Nhưng Moggallāna, thế còn các sinh vật sống trên mặt đất này thì sao (tức là con người và súc vật đang sống trên mặt đất và dưới đó.)? Con sẽ làm gì đối với chúng?

“ Con sẽ tạo ra một trong hai cánh tay của con mở rộng ra như thể bãi đất. Điều này dành cho các tạo vật đó cư ngụ. Rồi con sẽ lật mặt đất lên với cánh tay còn lại. (Ekāhaṃ bhante pāṇiṃ abhinimminissāmi seyyathāpi mahāpaṭhavī. Ye paṇhavīnissitā pana. Te Tattha saṇkāmessāmi ekena hatthena paṭhaviṃ parivattessāmīti.)”

“Không được đâu Moggallāna, không được hân hoan lật ngược mặt đất lên như thế. Các sinh vật sẽ gặp phải kết quả ngược lại.” Đức Phật phán (Alaṃ Moggallāna mā te rucci paṭhaviṃ parivattetuṃ vipallāsanpi sattā paṭilabheyyunti).”

“ Ôi Đức Thế Tôn, rồi sau đó con sẽ sai tất cả các tỳ khưu đến Kurupadīpa để khất thực. (Sādhu bhante sabbo bhikkhusañgho uttarakuruṃ piṇḍāya gaccheyyāti)”

“Nhưng điều gì sẽ xảy ra đối với các tỳ khưu không có được phép thần thông?”

“ Con sẽ khiến họ đi tới đó bằng phép thần thông của con. Ôi Đức Thế Tôn. (Tathāhaṃ bhante karissāmi yathā sabbe bhikkhū gacchissatīti.)”

“Không được đâu, xin đừng làm hài lòng các vị tỳ khưu đi đến khất thực tại Kurupadīpa.”

Các đoạn nói đến ở trên mô tả cuộc đối thoại giữa Đức Phật và Trưởng lão Moggallāna có ý nghĩa rất lớn cho dù đối với một số học giả hiện đại hình như điều đó không chắc chắn đã xảy ra. Nhưng, rốt cuộc những đoạn trên có thể được tìm thấy trong Kinh Phật viết bằng tiếng Pali (cuốn 11. trong 11,12), không thấy có trong các văn bản được viết sau này như các cuốn Chú giải chẳng hạn. Sự kiện này khiến ta đi đến ý tưởng thứ hai và chính xác hơn, có sự phân tích của các nhà hoài nghi đích thực phải đi đến kết luận là nên loại bỏ sang một bên coi như là điều không đáng phải quan tâm. Cuối cùng những đoạn trên xuất hiện để khẳng định chẳng có gì cả, tuy nhiên thật lạ kỳ hay khó tin không có thể xảy ra cho một vị tỳ khưu có được khả năng thần thông như vậy.

Nguyên do cơ bản

Lý do khiến Đức Phật ngăn cản Moggallāna không được làm như vậy đã được nhắc đến trong bản văn sau này gọi là Bình đẳng tính trí (Samantapāsādikā (cuốn 1 trang 208) cho rẳng Đức Phật ngăn cấm Trưởng lão Moggallāna không được làm như vậy – cho dù Đức Phật dư biết Trưởng lão Moggallāna thực sự có thể làm được điều đó, chính là vì ngài nhận thấy nếu một sự kiện như vậy cứ liên tục xảy ra nhiều lần sau này, thì nhiều người sẽ tìm đến các tỳ khưu để xin họ giúp đỡ với sức mạnh thần thông của ngài và khi các vị đó không thể có mặt ở đó luôn mãi để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong thời gian hoạn nạn xảy ra. Với một cách giải quyết ấn tượng như vậy chỉ xảy ra có một lần và chỉ được phép thực hiện có một lần mà thôi, để khi dân chúng nghe biết biến cố đó sẽ không đi tìm kiếm tỳ khưu xin giúp đỡ họ thoát khỏi những cơn hoạn nạn như vậy. Liệu có ai từ chối đến cứu giúp họ chăng? cho dù thực tế có một số các vị Tôn Giả không có được sức mạnh thần thông đó. Rồi dân chúng sẽ xỉ vả và nói xấu họ bằng nhiều cách. Chính vì các vị tôn giả này đã không thể tiếp cứu họ khỏi cơn hoạn nạn. Hành vi bất xứng của dân chúng như vậy đối với các vị tôn giả chắc chắn sẽ khiến họ phải tái sanh nơi cõi khổ. Chính vì thế Đức Phật đã không cho phép Trưởng lão Moggallāna thực hiện phép lạ (thần thông) vào thời điểm đó.

Người ta cũng cho rằng một vị tỳ kheo với khả năng thần thông có thể biến đổi nước thành đất cứng cũng có thể đổi nước thành các vật cứng, gồm cả kim loại, như thuỷ tinh, núi, cây cối, nếu ngài muốn như vậy, ngay cả biến nước thành vàng hay thành bất kỳ loại vật chất nào ngài muốn biến đổi, tỳ kheo chỉ cần muốn thực hiện là xong và quyết làm như vậy theo cách đã mô tả ở trên. Rồi nước sẽ được biến đổi theo như ước muốn của tỳ kheo theo khả năng thần thông của ngài.” điều này đọc thấy trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) 2/232

Ta không thấy đề cập đến ví dụ điển hình nào về khả năng như vậy trong bản văn trên. Nhưng những bài tường thuật liên quan đến trưởng lão Pilindavaccha giúp xác định lời tuyên bố trên. Trưởng lão là một vị A-la-hán có sức mạnh thần thông rất lớn dưới thời Đức Phật tuy nhiên bài tường thuật sau không phải là sự biến đổi nước thành đất, mà chỉ nhằm chứng minh lời tuyên bố “một tỳ kheo với sức mạnh thần thông có thể biến đổi bất kỳ điều gì sang một điều gì đó.

Trưởng lão Pilindavaccha chuyển đổi vật chất cơ bản thành vàng.

Một buổi sáng nọ trưởng lão đi khất thực tại một ngôi làng là nơi ngài thường xuyên đến thăm mỗi ngày. Vào thời điểm trong làng có tổ chức nhiều trò vui chơi giải trí, với trẻ nít được trang điểm bằng hoa và các đồ trang sức và đến thưởng thức những cuộc biểu diễn. Ngài trưởng lão đã đi từ nhà này sang nhà khác cho tới khi ngài đến nhà một người làm công quả tại một thiền viện và ngài ngồi vào chỗ dành riêng cho ngài.

Tại đó ngài bắt gặp một đứa con gái đang khóc, con bé là con gái của chủ ngôi nhà đó. Vì lòng bi mẫn ngài liền hỏi mẹ cô bé xem tại sao nó lại khóc như vậy. Người mẹ trả lời vị trưởng lão, nói rằng. “Con gái tôi thấy các đứa trẻ khác đang thưởng ngoạn những cuộc trình diễn và được trang điểm bằng hoa và nữ trang. Cháu cũng muốn đi đến tham gia, nhưng lại không có gì để trang điểm cả. Con gái tôi đã xin mẹ nó, nhưng tôi bảo sao một người nghèo như chúng ta có thể bỏ tiền ra mua cho con gái những đồ đó. Chính vì thế mà cháu buồn và khóc nức nở.

Biết được sự việc như vậy, Trưởng lão Pilindavaccha nhặt lên một nắm cỏ khô gần đó và đưa cho mẹ cô gái, nói rằng, “Hãy đeo vào cổ cho con gái bà đi.” Người mẹ làm y như trưởng lão nói. Ngay khi bó cỏ đụng tới đầu bé gái, thình lình biến thành một sợi giây chuyền hảo hạng. - còn tốt hơn nhiều so với những gì có trong kho bạc hoàng gia.(đoạn này viết bằng tiếng Pali như sau: Atha kho sa ārāmikini taṃ tiṇṇadūpakuṃ gahetvā tassā dārikāya sise paṭimuñci. Sā ahosi suvaṇṇamālā abhirūpā dassaniyā pāsādikā. Natthi tādisā raññopi antepure suvaṇṇamālā. – Trích trong Đại Phẩm (Mahāvagga) thuộc bộ Luật Tạng 2/120)

Điều xảy ra mơ cũng không có được và điều đó đã được đồn thổi và lan truyền đi khắp nơi từ miệng người này sang miệng người khác. Sau đó ít lâu có một nhóm dân làng đến tâu nhà vua Bimbisāra. Họ tố cáo gia đình cô bé đã ăn trộm thứ đó từ dâu đó, nói rằng “Một cô gái trong một gia đình đi làm công quả cho một thiền viện thì lấy đâu ra tiền để mua được một vòng hoa bằng vàng đẹp đến như vậy. Ngay cả trong kho bạc nhà vua cũng chẳng tìm đâu ra. Họ thuộc gia đình nghèo thì làm sao có thể có được một đồ quí giá đến như vậy, nếu như không phải họ đã đánh cắp ở đâu đó?”

Nghe kể sự việc như vậy. nhà vua ra lệnh trói các thành viên trong gia đình lại và dẫn đến cho nhà vua hỏi cung.

Buổi sáng hôm sau vị trưởng lão cũng đi khất thực như thường lệ tại nhà người làm công quả cho thiền viện. Không thấy ai ở nhà. Ngài liền hỏi những người làng xem họ đi đâu cả rồi mà bỏ nhà vắng tanh như vậy. Dân làng cho hay họ đã bị tố cáo ăn cắp vòng vàng cho con gái đeo vào ngày hôm trước.

Sau khi được thông báo như vậy, vị Trưởng Lão tiến đến hoàng cung. Tại đó ngài được mời ngồi vào chỗ riêng dành cho ngài. Khi vua Bimbisāra biết có Trưởng Lão đến thăm liền đến tỏ lòng tôn kính ngài và ngồi ngay bên cạnh gần vị Trưởng Lão.

Trưởng lão Pilindavaccha nói với nhà vua, “Thưa hoàng thượng, gia đình này đã làm điều gì sai trái đến nỗi các thành viên trong gia đình lại phải xiềng lại như thế kia.”

Nhà vua lên tiếng, “Thưa ngài Trưởng Lão, ở nhà họ có một sợi dây chuyền bằng vàng rất đẹp và quí giá đến nỗi không có gì so sánh được ngay cả trong kho bạc hoàng cung cũng không tìm đâu ra. Làm sao họ có dược điều quí giá đó vì họ quá nghèo và thiếu thốn đến như vậy, chẳng phải do họ đã đánh cắp đâu đó hay chăng?”

Nghe thấy những lời nhà vua vừa nói, Trưởng Lão liền quyết định thông qua sức mạnh thần thông của ngài, thình lình ngài biến toàn bộ sảnh đường của nhà vua thành vàng. Ngay sau đó toà sảnh đường của nhà vua liền biến thành vàng, theo y như ý muốn sức mạnh của trưởng lão. Rồi ngài Trưởng lão hỏi nhà vua, “Thưa Hoàng Thượng, làm sao Ngài lại có được những thứ đó, một lượng vạng nhiều đến như vậy? “(đoạn viết bằng tiếng Pali như sau: Attha kho āyasamā Pilindavaccho rañño Māgadhassa seniyassa Bimbisārassa pāsādaṃ suvaṇṇanti adhimucci. So ahosi sabbaso suvaṇṇamamayo Idaṃ pana te mahārājjātāvabahuṃ suvaṇṇaṃ kutoti.)

Điều này đã hoàn toàn thuyết phục được nhà vua, ngài liền nói. “Giờ thì tôi hiểu, thưa ngài Trưởng Lão kính mến, trường hợp này hoàn toàn là kết quả của sức mạnh thần thông của ngài mà ra” Rồi nhà vua cho tha những thành viên gia đình người làm công quả cho thiền viện. Miễn cho họ khỏi truy tố về tội ăn cắp.(đoạn văn Pali viết như sau: Aññataṃ Bhante ayyasseveso iddhānubhāvoti taṃ ārāmikulaṃ muñcāpesi .--- Trích trong Đại Phẩm (Mahāvagga) thuộc Tạng Luật 2/121)

Trường hợp trên của Trưởng Lão Pilindavaccha dùng để khẳng định tuyên bố cho rằng đối với một vị tỳ khưu đạt được những sức mạnh Thần Thông như vậy thì bất kỳ điều gì cũng được biến đổi sang bất kỳ điều gì theo ý muốn của ước mơ trổi vượt của ngài.

Lời Tuyên Bố của Trưởng Lão Xá lợi Phất (Sāriputta)

Đối với những ai muốn có thêm bằng chứng, bài tường thuật trích trong Kinh Phật sau đây (cuốn 22 trang 312 (Kinh Hathisārīiputta trong cuốn Chakkanipāta, thuộc Tăng Chi Bộ Kinh) có thể giúp họ đạt đến mục tiêu trên.

“Đã có lần Đức Phật đang lưu lại trên núi Gijakūṭa (ngọn núi chim kền kền) gần thành phố Rājagaha. Chính vào một buổi sáng, sau khi ngài Trưởng Lão Xá-lợi Phất (Sāriputta) đã mặc y cà sa, liền xuống núi đem theo bát khất thực cùng với một số các vị tỳ khưu. Nhìn thấy một đống củi chất đống trước mặt, ngài liền hỏi các vị tỳ khưu xem họ có nhìn thấy đống củi trước mặt hay không. Khi nghe họ trả lời khẳng định, ngài liền tiến hành nói với họ những lời sau đây:

“ Ôi anh em thân mến, một vị tỳ khưu đạt được phép thần thông, và có ý muốn tâm linh (fluency), nếu người đó muốn, ngài có thể biến đổi đống củi đó thành đất một cách tức thì. Tại sao thế? Đó chính là nội trong đống củi đó đã có mang địa giới. Cũng cách đó nếu ngài muốn đống củi biến thành nước, lửa hoặc không khí, nó tức khắc liền biến thành thành tố này thành tố nọ ngay. Tại sao thế? Đó chính là trong đống củi đó đã chứa sẵn các thủy hỏa và phong giới. Hơn thế nữa, ngài còn có thể tạo ra một điều gì đó rất đẹp hay rất xấu nếu ngài muốn. Điều này xảy ra là vì trong đống củi đó cũng có chứa cả thành tố đẹp (Subhadhātu) và thành tố xấu (Asubhadhātu) trong đó.”

Cho dù lời khẳng định trên là của Trưởng Lão Xá-lợi Phất (Sārīputta), chứ không phải của Đức Phật, nhưng không kém nặng ký như chính những lời của Đức Phật, là vì cũng còn thấy có những lời nói khác của chính Đức Phật hoàn toàn để khẳng định sự kiện này. Điều quan trọng hơn là có một yếu tố rất hấp dẫn và giá trị cần phải lưu ý trong câu nói này. Đó chính là theo Phật giáo, trong vật chất, cho dù là chất cứng, chất lỏng hay chất khí. Tất cả những cái được gọi là thành tố đều có trong đó là đất, nước khí và lửa. Bản chất cứng xuất hiện nhiều hơn khiến cho vật đó cứng là vì nó chứa đặc tính cứng (đất) rõ nét hơn các đặc tính khác. Cũng giống như vậy chất đó là lỏng hay là nước là vì nó chứa thành tố gọi là nước rõ nét hơn các thành tố khác, nhưng vẫn tồn tại trong vật chất đó dưới một dạng được khống chế theo một tỷ lệ nhất định nào đó.

Lời công bố của Đức Phật

Một sự kiện đáng lưu ý khác liên quan đến phép thần thông được ghi lại trong tác phẩm Chakkanipāta thuộc Tăng Chi Bộ Kinh trong Kinh Phật (cuốn 22. trang 346 số 295) Các đoạn được coi như là các lời dạy của Đức Phật như sau:

“Ôi các vị tỳ khưu thân mến, nếu một trong số các vị được phú cho sáu phẩm chất sau đây, nếu vị đó muốn, tiêu huỷ cả núi Hymalaya cũng được chỉ trừ có điều xấu được gọi là Vô minh (avijja) mà thôi. Ôi tỳ khưu, sáu điều đó là gì thế? đó là:

1. Một tỳ khưu trong tăng già có tài khéo trú vào thiền.

2. Ngài có khả năng ổn vị thiền một cách nhanh chóng.

3. Ngài có khả năng thoát khỏi hành thiền.

4. Ngài có khả năng thuần thục (fluency) thiền chứng.

5. Ngài có khả năng trong những tình huống dẫn đến nhập thiền.

6. Ngài có khả năng đặt được các sức mạnh thần thông và gây ấn tượng do kết quả hành thiền đem lại.

Ta cần phải lưu ý từ những điều kể trên là vị tỳ khưu nào đạt được sáu phẩm chất đó chẳng có gì khác với vị tỳ khưu đã đạt được tính thuần thục tâm (iddhima cetovasippatto) như đã đề cập đến ở trên. Nếu ta liên hệ điều này với lời phán quyết của Trưởng Lão Xá-lợi Phất (Sārīputta)về hiệu quả một vị tỳ khưu tầm cỡ đó đạt được, nếu ngài muốn, ngài có thể biến cả một đống củi trở thành đất hay nước, thì ta thấy ý nghĩa được làm rõ ở đây.

Tuy nhiên, có một vấn đề về ý nghĩa của từ Pali được dùng trong câu là số bốn tức là ‘kallata’ trong đoạn “Samādhissa kallatākusalo hoti”, có nghĩa là có khả năng thuần thục “hành thiền”. Từ ‘kalla’ tạo ra một vấn đề đó là phải giải thích làm sao để biết chính xác từ đó muốn ám chỉ điều gì. Trong bản văn gọi là Manorathapūraṇī một trong những bản văn chú giải, chỉ có một đoạn giải thích ngắn ngủi như sau “Samādhissa Kallatākusaloti Samādhissa Kallatāya kusalo. Samādhicittaṃ hāsetuṃ kallaṃ katuṃ sakkotīti attho.” Có nghĩa là có được tài xoay sở ‘kalla’. Lời giải thích này xem ra không rõ ràng. Chính vì thế mà vấn đề vẫn là ở chỗ từ ‘kalla’ còn hàm chứa nhiều ý nghĩa khác có thể được hiểu ra.

Trong tự điển Pali-Anh do giáo sư Tiến sĩ Rhys Davids, ta đọc thấy những ý nghĩa sau: 1. khỏe, khoẻ mạnh, lành mạnh; 2- giỏi, có khả năng, khéo léo; 3. sẵn sàng, được sưả soạn; 4. thích hợp, tương ứng, đúng.

Thí dụ như: Kallakusala = tài khéo lành mạnh.

Với những ý nghĩa đa dạng như ở trên, vẫn còn một vấn đề là làm thế nào để chọn cho được cách giải thích tốt hay hoàn hảo nhất. Đương nhiên quyết định của tôi chỉ mang tính cách tùy chọn trong việc lựa chọn cách giải thích ý nghĩa từ Fluency mà thôi, đó chính là nó mang ý nghĩa chỉ một khả năng hay là một kinh nghịêm nào đó trong vấn đề rút vào và thoát ra khỏi, nhập thiền cũng còn có khả năng quyết định và thay đổi đề mục thiền. Những điều này cũng còn hàm chứa cả kinh nghiệm hướng tâm về việc thực hiện các phép lạ (thần thông) nữa.

Liên quan đến phẩm chất thứ sáu tức là phẩm chất cuối cùng được nhắc đến ở trên. Như đã được giải thích trong tập Chú Giải đó là: vị tỳ khưu đó phải có khả năng rút vào những mức độ hành thiền đậm đà cho đến khi đạt đến mức độ cao nhất. Các đoạn nói về điều này viết bằng tiếng Pali như sau: Samādhissa abhinihārakusaloti upari samāpattisamāpajjjanatthāva paṭhamajhānādasamādhi abhunihārituṃ sakkonto samādhisa abhinihārakusalo nāma hoti. So paṭhamajhānā vuṭṭhāya dutiyaṃ samāpajati dutiyajjyhānā vv…. tatiyajjhānāya vuṭṭhāya catutthaṃ samāpajjatīti. Trích trong tác phẩm Manoratthapūraṇī 3/ 122

Từ ‘Abhinihāra’ nghĩa đen là “hướng tới một cách mạnh mẽ” cần được so sánh với cùng một từ được dùng ở các nơi khác. Để có thể nắm được hiểu biết rõ hơn về ý nghĩa của nó. Đó là các đoạn “ Một vị tỳ khưu với tâm nhập thiền được thanh tịnh. v.v….hướng tâm của mình tới việc Nhớ Lại Tiền Kiếp . . .” các từ Pali như sau: pubbenivāsānusssatiñāanṇāya cittaṃ abhinīharati abhinināmeti. Từ ‘abhinīhara’ và ‘abhivūharati’ có cùng một ý nghĩa, chỉ khác là từ trước là một danh tự còn từ sau là động tự. Vì thế cả hai đều mang ý nghĩa là thông qua ứng dụng sức mạnh tâm có được qua nhập thiền hướng về một mục đích như vậy. Có thể là khả năng Nhớ Lại Tiền Kiếp hay là bất kỳ loại trí ñāṇa nào khác (có nghĩa là Tuệ giác), như vậy đoạn này có nghĩa là “ Khả năng Abhinīhara thiền nên hiểu là một tỳ khưu đạt được khả năng thuần thục tâm linh (cetovasippatto). Trong bất kỳ hướng nào ngài ra một quyết tâm áp dụng sức mạnh hành thiền của mình, kết quả sẽ có được ngay lập tức dưới dạng thần thông (Abhiñña) ngài muốn thực hiện. Đây là lý do tại sao Đức Phật khẳng định sự thật, tuyên bố điều đó. Giống như tiếng sư tử rống, hậu quả là một vị tỳ khưu đạt được khả năng thuần thục tâm phải có được phẩm chất chung cuộc quan trọng nhất đó là khả năng “Abhinīhara - thiền”.

Những Nghi Ngờ Tiếp Theo

Giờ đây, đối với những người có thể chấp nhận khả năng có được những Thần Túc Thông (Iddhividhi), một câu hỏi xuất phát từ mối nghi ngờ thuần tuý có thể xuất hiện ở dây một lần nữa: liệu những thực thể “được sáng tạo” hay “được biến đổi” có thể tồn tại luôn hay chỉ tồn tại lúc đó sau rồi thì thôi? Điều này ám chỉ sợi dây chuyền bằng vàng, có được thể hiện dưới dạng một triều thiên bằng vàng đội lên đầu cho cô bé con của người làm công quả cho thiền viện. và sảnh đường của nhà vua Bimbisāra – cả hai đều được tạo ra do phép thần thông của ngài Trưởng Lão Pilindavaccha. Đương nhiên, đây là những câu hỏi cần được nghiên cứu có thể nổi lên nơi một số người, hay nhiều người muốn tìm hiểu nhiều hơn và muốn biết những chi tiết khác nữa liên quan đến cả hai vấn đề là điều dễ hiểu.

Với câu hỏi trên, tiếp theo là một câu hỏi khác không kém phần hấp dẫn đó là: Tại sao những vị A-la-hán đạt được sức mạnh thần thông như vậy thực sự có khả năng tạo ra bất kỳ điều gì? Tại sao họ không tạo ra biết bao nhiêu đồ với một số lượng lớn đề đáp ứng nhu cầu của nhiều người trên toàn thế giới như là: mùa màng, thực phẩm và các loại tài sản khác hay những đồ quí giá khác. Toàn bộ những thứ đó xuất phát từ lòng thương sót đối với những người nghèo và những người thiếu thốn khắp nơi trên trái đất này? Vì điều này có thể cứu được nhiều người thoát khỏi khó khăn khốn nạn họ phải chịu đang khi phải chật vật tìm kiếm của ăn để nuôi sống bản thân.

Thẳng thắn mà nói, đây chính là lô-gic hay lý do chắc chắn sẽ thấy nổi lên nơi một số những nhà tư tưởng hiện đại vì họ không hài lòng với bất kỳ điều gì được mô tả trong Kinh Pali như là chính những lời của Đức Phật có thể dùng làm câu trả lời hoàn hảo cho một nghi ngờ như vậy.

Đức Phật có thể biến cả một ngọn núi đá vững chắc trở thành một núi vàng

Một lần kia Đức Phật đang lưu lại trong một túp lều trong rừng, bên cạnh dẫy núi Hymalaya, trong vương quốc Kosala. Đang khi ngài còn lưu lại hành thiền, thì một ý tưởng xuất hiện trong tâm ngài là nếu như ngài được lên ngôi vua một cách chính trực, không gây phiền hà cho bất kỳ ai hay khiến người khác gây phiền hà cho bất kỳ người nào, không xâm phạm đến tài sản của bất kỳ ai hay để cho ai đó xâm phạm đến tài sản của người khác và không gây phiền hà cho bất kỳ ai, mà cũng không để cho ai phải phiền hà đến người khác. “Nếu như tất cả những điều này có thể xảy ra cho tôi?” ngài nghĩ tiếp.

Ngay lúc đó, Ma-vương (Māra) tên ác ma biết được ý nghĩ của Đức Phật thông qua ý tưởng (đọc được ý của người khác) liền tiến lại gần Đức Phật và đã đề nghị những lời sau đây.

“Mong rằng Đấng Thế Tôn tiến lên ngôi vua. Mong rằng việc ngài tiến lên chiếm lấy ngai vàng là điều tốt: Ngài thật xứng đáng làm điều đó lắm chứ.”

Ma-vương (Māra) tên ác ma nói như vậy, Đức Phật liền hỏi hắn, nói rằng,

“Ôi Ma-vương (Māra) tên ác ma, thế nhà người nhìn thấy gì trong ta, mà khiến cho nhà ngươi nói như vậy?”

Ma-vương (Māra) trả lời, “Ôi Đức Thế Tôn, đó là Tứ Thần Túc (iddhipada),.. ngài đã vun trồng xưa nay, khiến nên giống như chiếc xe luôn lúc nào cũng sử dụng được, chính vì thế đã trở nên rất thuận tiện. Ngài đã kiên trì tu luyện bốn phẩm chất đó. ngài đã kinh qua được chúng. Dù Ngài có muốn ngọn núi gọi là Himalaya biến thành vàng, thì ắt sẽ y như lời ngài nói vậy. Chính vì thế ta đã mời ngài tiến lên nắm ngôi vua. Ôi Đức Phật thế tôn.” Đoạn trên được viết bằng tiến Pali như sau: Bhagavato so bhante cattāro Tư Thần Túc (iddhipādā) bhāvitā bahulīkutā yanikatā vatthukatā anuṭṭhitā paricitā susamāraddhā ākañkhamāno pana bhante bhagavā himavantaṃ pabbatarrājaṃ suṣantveva adhimucceyya suvaṭṭantveva adhimucceyya suvaṭṭapabbatassāti)

Để trả lời cho Ma-vương (Māra) Đức Phật lên tiếng:

“Ngay cả toàn bộ ngọn núi này có thể biến thành vàng ròng tỏa sáng và tăng số lượng gấp đôi cũng chẳng đủ cho một con người (không có tư tưởng đủ trong tâm những ai quá tham lam.) Sau khi phát hiện ra điều này một người vẫn bình thản, tại sao một người, sau khi đã nhận ra những đau khổ gây ra cho người khác (do tham lam) do thú vui nhục dục, lại hướng tâm mình vào đó làm gì?

“Một người đã biết Upadhi (tức là thú vui nhục dục) là trở ngại trên trái đất này nên tìm hiểu từ bỏ upadhi là như thế nào.”

Thấy phản ứng của Đức Phật như vậy, khiến cho tên ác ma (Ma-vương (Māra) đau khổ và hối hận, nghĩ rằng, “Đức Thế Tôn đã biết rõ tôi. Ngài thông suốt đã đọc được tâm của tôi!.” Hắn liền biến mất.

Câu chuyện trên được trích trong cuốn 15 trang 169 số 475 trong Kinh Pali.

Dùng để xác định lại một lần nữa một sự thật là: nếu ngài muốn Đức Phật có thể biến đổi toàn bộ núi Himalaya thành vàng. Nhưng ngài đã không làm thế và sẽ không làm như vậy bao giờ, làm như thế vì lý do ngài đã nói với Ma-vương (Māra) là tên tội lỗi.

Đối với những ai lúc nào cũng luôn nghi ngờ, một ý tưởng có thể nổi lên đó là chính Đức Phật rất có thể đã không làm được điều đó. Nhưng nếu chúng ta nhớ lại ngay cả các vị đồ đệ A-la-hán của ngài như tỳ khưu Pilindavaccha cũng có thể làm được điều đó, thì chẳng còn gì phải nghi ngờ Đức Phật lại không thể biến cả ngọn núi trở thành vàng, trừ việc một số người cho là những bài tường thuật về Pilindavaccha chỉ là những điển hình hay những điều hoàn toàn do tưởng tượng mà ra. Một thái độ tâm như vậy của một số Phật tử thường nhằm để làm giảm giá trị những ân đức của Đức Phật và các đồ đệ A-la-hán của ngài mà thôi. Nhưng mục tiêu của tác phẩm này đầu tiên lại dựa vào tính trung thực của những gì được tường trình lại trong Kinh Phật liên quan đến khía cạnh này của Phật giáo. Khả năng hay nói khác hơn, những sức mạnh thần thông này sẽ được nói đến sau cho dù ý kiến của tác giả cho là chúng có thể dựa trên sự thật chứ không phải ảo tưởng.

 


[1] Trích trong Uparipaṇṇāsaka trích trong Trung Bộ Kinh (Middle Length Sayings)

[2] Trong tác phẩm Uparipannasaka thuộc Trung Bộ Kinh (Middle Lenghth Saying).

[3] Từ Bụi Bậm được gọi là những phiền não trong tâm cũng thường được dùng một lần trước đây. Đó chính là ngay sau khi ngài được Giác ngộ, Đức Phật đã không muốn thuyết pháp về những khám phá của ngài cho nhân loại. Nhận ra thật khó lòng biết bao đối với những người dân thường. Sau đó ngài được một vị Đấng Phạm Thiên (Brahma) tên là Sahampati. Ngài đã nhắc nhở Đức Phật là dầu sao đi chăng nữa thì vẫn còn một số người vẫn còn một lượng rất ít’bụi” bậm ở trong tâm (có nghĩa là Những phiền não) trong con mắt siêu nhiên của ngài.

[4] Bản văn gọi là Mahatika giải thích tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) cho rằng ở Vương quốc Sri Lanka có một con sông có cùng tên là Gañga (có nghía là Sông Hằng). Chính vì thế mà sông này hàm chứa ý nghĩa cho rằng con sông được đề cập đến ở đây cũng ở Sri Lanka và và như vậy vị trưởng lão kể trong bài tường thuật cũng phải là một cư dân Sri Lanka.

[5] Đoạn văn này có tên là Mahāṇīka giải thích rằng Dadhi (sữa đông cục) thì ngon hơn là Khīra (nước sữa hay là sữa tươi) nhưng Navanīta (bơ) còn ngon hơn Dadhi; Trong khi đó Sappi (bơ sữa lỏng) lại còn ngon hơn Navanīta rất nhiều. Tất cả các loại Sappimāṇḍa này, chỉ có kem sữa Sappi, được coi như là loại ngon nhất.

[6] Đoạn trên được viết bằng tiếng Pali như sau: Gamanagamanakaleva yatha nam manussa passanti evam adhitthasi idam tavattha mahamoggallanatihero avibhavapatihariyam akasi.

[7] Các đoạn Pali sau đây: Taṃ divasaṃ kira lokavivaraṇaṃ nāma ahosi, manussāpi deve passanti devāpi manusse. Tattha neva manussā udhaṃ olokenti na devā adho olokenti sammukhā va aññamaññaṃ passanti.

[8] Cần lưu ý ở đây là Ma-vương (Mara) gọi Đức Phật là “tỳ khưu” được dịch là “đạo sư” đây chính là chủ ngữ xưng hô không phải là xuất phát từ lòng kính trọng được dùng như là một người ngang hàng hay thấp hơn.

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03

 

Chân thành cám ơn Tỳ khưu Thiện Minh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 02-2007)

[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 10-03-2007