BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Thương yêu là thông cảm

Bình Anson

NXB Tôn Giáo
TL. 2005 - PL. 2549


  

-04-

Ba giới, sáu đường

Trong đạo Phật, chúng ta thường nghe câu "Ba giới, sáu đường luân hồi" (tam giới, lục đạo luân hồi). Ðây là một cách diễn tả quan niệm về các hình thái hiện sinh của mọi loài luân hồi trong cõi Ta-bà (Samsāra, Sa-bà). Ba giới là Dục giới, Sắc giới, và Vô sắc giới. Sáu đường luân hồi là sáu loài chúng sinh:

1) chư thiên,
2) loài người,
3) loài a-tu-la,
4) loài ngạ quỷ,
5) loài thú vật,
6) loài đọa địa ngục.

Hai loài đầu tiên - chư thiên và loài người, được xem như là loài có nhiều phước báu, còn bốn loài kia chịu những cảnh đọa đày, đau đớn.

Riêng chư thiên gồm 26 loài (có sách liệt kê 27 hoặc 28 loài), ở trong ba cõi giới khác nhau: Dục giới, Sắc giới, và Vô sắc giới. Loài người và bốn loài đau khổ thì ở trong cõi Dục giới. Như vậy, tổng cộng là 31 loài, theo quan niệm của đạo Phật.

Nếu phân loại theo nguồn gốc phát sinh, cõi Ta bà chia làm chín địa giới (Cửu địa): Dục địa, bốn Sắc địa do đắc bốn tầng thiền-na hữu sắc (rūpa jhāna), và bốn Vô sắc địa do đắc bốn tầng thiền-na vô sắc (arūpa jhāna) .

Tất cả các loài trong cõi Ta-bà này, kể cả chư thiên, đều phải qua cảnh sinh, trụ, hoại, diệt, và cùng chịu tám loại khổ (bát khổ), dù rằng có thể có những cường độ và thời gian khác nhau. Đôi khi chúng ta thấy có cụm từ "tam đồ, bát khổ" dùng trong các kinh sách, trong đó, "tam đồ" đồng nghĩa với "tam giới" (dục giới, sắc giới, vô sắc giới). Tám loại khổ đó là:

1) Sinh khổ: khổ do sinh,
2) Lão khổ: khổ do già,
3) Bệnh khổ: khổ do bệnh,
4) Tử khổ: khổ do chết,
5) Ái biệt ly khổ: khổ do xa lìa những gì ta thích,
6) Oán tăng hội khổ: khổ do nối kết với gì ta không ưa thích,
7) Cầu bất đắc khổ: khổ do không được điều ta mong cầu,
8) Ngũ ấm xí thạnh khổ: khổ do hiện hữu năm ấm (sắc, thọ, tưởng, h
ành, thức).

Sau đây là bảng liệt kê 31 loài trong cõi Ta-bà, từ cao xuống thấp:


A. Vô sắc giới
(Formless World, Arūpa Loka)

31. Phi tưởng, phi phi tưởng thiên (Devas of Sphere of Neither-perception nor non-perception; Nevasaññā-nasaññā-yatanūpagā devā)
30. Vô sở hữu thiên (Devas of Sphere of No-thingness; Ākiñcañña-yatanūpagā devā)
29. Thức vô biên thiên (Devas of Sphere of Infinite Concsiousness; Viññānañca-yatanūpagā devā)
28. Không vô biên thiên (Devas of Sphere of Infinite Space; Ākāsānañca-yatanūpā devā)

B. Sắc giới
(World of Form, Rūpa Loka)

B1. Tứ thiền

27. Vô song thiên (Peerless devas; Akanitthā devā)
26. Thiện kiến thiên (Clear-sighted devas; Sudassī devā)
25. Thiện hiện thiên (Beautiful or Clearly Visible devas); Sudassā devā)
24. Thanh tịnh thiên (Untroubled devas; Atappā devā)
23. Vô đọa thiên (Devas not Falling Away; Avihā devā)
22. Vô tưởng thiên (Unconscious beings; Asaññā sattā)
21. Quảng quả thiên (Very Fruitful devas; Vehapphalā devā)

B2. Tam thiền

20. Biến tịnh thiên (Devas of Refulgent Glory; Subhakinnā devā)
19. Vô lượng tịnh thiên (Devas of Unbounded Glory; Appamānasubhā devā)
18. Thiểu tịnh thiên (Devas of Limited Glory; Parittasubhā devā)

B3. Nhị thiền

17. Quang minh thiên (Devas of Streaming Radiance; Ābhassarā devā)
16. Vô lượng quang thiên (Devas of Unbounded Radiance; Appamānabhā devā)
15. Thiểu quang thiên (Devas of Limited Radiance; Parittabhā devā)

B4. Sơ thiền

14. Ðại phạm thiên (Great Brahmas; Mahā Brahmā)
13. Phạm phụ thiên (Ministers of Brahmas; Brahma-Purohitā devā)
12. Phạm chúng thiên (Retinue of Brahma; Brahma-Parisajjā devā)

C. Dục giới
(World of Sense-Desires, Kama Loka)

11. Tha hóa tự tại thiên (Devas Wielding Power over Others' Creations; Paranimmita-vasavattī devā)
10. Hóa lạc thiên (Devas Delighting in Creation; Nimmānaratī devā)
09. Ðâu-suất thiên (Contented devas; Tusitā devā)
08. Dạ-ma thiên (Yama devas; Yāmā devā)
07. Ðao-lợi thiên (The Thirty-Three Gods; Tāvatisa devā)
06. Tứ thiên vương thiên (Devas of the Four Great Kings; Catumahārājikā devā)
05. Loài người (Human beings; Manussā)
04. Loài a-tu-la (Titans; Asurā)
03. Loài ngạ quỷ (Hungry ghosts; Petā)
02. Loài thú vật (Animals; Tiracchānā)
01. Loài đọa địa ngục (Hells; Nirayā)


Bảng liệt kê trên được dựa theo hai tài liệu: quyển "Đức Phật và Phật Pháp" của ngài Hòa thượng Narada (ông Phạm Kim Khánh dịch) và phần giới thiệu trong bản dịch Anh ngữ Trường Bộ Kinh của ông Maurice Walshe (The Long Discourses of the Buddha: A Translation of the Digha Nikaya). Theo đó, loài người chúng ta chỉ đứng hàng thứ 5, trên 4 loài khác là địa ngục, thú vật (súc sinh), ngạ quỷ và a-tu-la. Bốn loài sau cùng này thường được gọi là những chúng sinh trong đọa xứ hay khổ cảnh. A-tu-la là loài có nhiều quyền lực nhưng không hạnh phúc vì có tánh sân hận, thường hay gây chiến với các loài khác. Đôi khi có sách không đề cập đến loài a-tu-la, và như thế cõi Ta-bà chỉ có 5 đường thôi (ngũ đạo luân hồi).

Loài người ở trong một cảnh giới có hạnh phúc và đau khổ lẫn lộn. Chư vị Bồ Tát thường chọn tái sinh vào cảnh nầy, vì ở đây có nhiều hoàn cảnh thuận lợi để phục vụ và thực hành những Pháp cần thiết nhằm thành tựu Đạo Quả Phật. Kiếp cuối cùng của Bồ Tát luôn luôn ở cảnh người.

Chư thiên có mặt trong cả ba cõi giới. Có 6 loại chư thiên trong Dục giới (hạng số 6 đến 11 trong biểu đồ), trong đó kinh điển thường đề cập đến cõi trời Đao-lợi và Đâu-suất. Cõi trời Đao-lợi còn gọi là cõi trời Ba Mươi Ba vì ở đó có 33 vị trời mà ngài Đế-thích (Sakka) là thiên chủ. Chính ở nơi đây, theo truyền thuyết, Đức Phật giảng Vi Diệu Pháp trong 3 tháng hạ. Cõi trời Đâu-suất là nơi lưu ngụ của những vị Bồ Tát đã thực hành tròn đủ các Pháp cần thiết để đắc Quả Phật, chờ cơ hội thích nghi để tái sinh vào cảnh người lần cuối cùng. Ngài Bồ Tát Mettaya (Di Lạc), vị Phật tương lai, hiện đang ở cảnh trời nầy, chờ ngày tái sinh vào cảnh người để thành tựu Đạo Quả Phật. Theo truyền thuyết, hoàng hậu Maya (Ma-da, Tịnh Diệu), mẹ của ngài Bồ Tát Siddhattha (Sĩ-đạt-ta), sau khi chết, tái sinh vào cảnh trời Đâu-suất, và từ đó sang cung trời Đao-lợi nghe Đức Phật giảng Vi Diệu Pháp.

Trên Dục giới có Sắc giới (rūpa loka), cảnh giới các vị Phạm Thiên, những vị Trời đã từ bỏ tham dục và đang thọ hưởng hạnh phúc của thiền-na (jhāna). Có tất cả 16 cảnh (số 12 đến 27 trong biểu đồ), tương ứng với bốn tầng thiền-na hữu sắc (rūpa jhāna). Trong đó, 5 cảnh giới cao nhất (số 23 đến 27) thường được gọi chung là Vô Phiền Thiên (suddavasa) hay Tịnh Cư Thiên, cảnh giới hoàn toàn tinh khiết. Đây là cảnh giới tuyệt đối riêng biệt của các vị Bất lai (A-na-hàm, Anāgāmi). Chúng sinh ở trong một cảnh khác mà đắc quả Bất Lai thì tái sinh vào cảnh nầy. Tiếp tục tu tập, các vị ấy đắc quả A-la-hán và sống ở đó cho đến lúc hết tuổi thọ, nhập Đại Niết Bàn.

Cao nhất là Cõi Vô sắc giới (arūpa loka) gồm có 4 hạng chư thiên tương ứng với bốn tầng thiền-na vô sắc (arūpa jhāna).

*

Theo ngài Hòa thượng Narada trong quyển "Đức Phật và Phật Pháp", giáo pháp của Đức Phật không nhằm mục đích truyền bá một lý thuyết về vũ trụ. Dù những cảnh giới trên có thật hay không, điều ấy không ảnh hưởng gì đến giáo lý của Ngài. Không ai bị bắt buộc phải tin điều nào, nếu điều ấy không thích hợp với suy luận của mình. Nhưng chúng ta cũng không nên bác bỏ tất cả những gì mà lý trí hữu hạn của con người không thể thấu hiểu tường tận.

-ooOoo-

 Ðầu trang | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | Mục lục



[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 01-05-2005