BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times font


Nương trú Tam Bảo, một tình cảm yêu thương

Ayya Khema
Diệu Liên dịch


Ni sư Ayya Khema (1923-1997) đã qua đời vì bệnh ung thư ở tuổi 74. Pháp danh của ni sư có nghĩa là "An lành và Yên ổn". Ni sư Ayya Khema, người Ðức đã thọ giới xuất gia ở Sri Lanka vào năm 1979, Ni sư đã chu du khắp thế giới để truyền dạy Phật Pháp. Ni sư cũng là tác giả của khoảng 25 tựa sách về Thiền và giáo lý Phật giáo.

Nương trú vào đấng Giác Ngộ (Phật) và giáo lý (Pháp) và các vị Thánh đệ tử (Tăng) có một ý nghĩa rất sâu xa. Nương trú là tựa vào, ẩn náu ở một nơi an toàn. Trong đời không có mấy nơi có thể được coi là an toàn. thật ra khó có thể tìm được một nơi nương trú hoàn toàn yên ổn ở thế giới này. Những chốn nương trú vật chất đều có thể bị thiêu hủy, phá hoại, biến mất. Phật - Pháp - Tăng là nơi trú tinh thần, một thiên đường không có sóng gió. Ngoài biển khơi, sóng, gió, bão tố làm cho con thuyền khó có thể lướt sóng. Nhưng khi con thuyền đi tìm nơi trú ẩn ở bến cảng, nơi mặt nước yên tĩnh, có nghĩa là nó đã tìm chốn để thả neo. Ðó là ý nghĩa của sự nương trú vào Phật - Pháp - Tăng.

Cuối cùng chúng ta cũng đã tìm được nơi an trú: ở giáo lý dạy rằng mọi khổ đau, phiền não của chúng sanh đều có thể đoạn diệt, chắc chắn như thế. Giáo lý - hay Pháp - này được Ðức Thế Tôn nói, đã được các vị đại đệ tử của Ngàiquán chiếu. Pháp Phật sẽ soi đường cho chúng ta. Tăng ở đây hàm chỉ các vị đã được giác ngộ dựa trên giáo lý của Phật, không cứ chỉ những người mặc áo tu. Khi đã tin hiểu rằng phiền não có thể được tiêu trừ, và tin rằng Phật pháp có thể giúp chúng ta thực hiện được điều ấy, thì sự an trú trong Tam bảo càng thêm có ý nghĩa.

Tự quy y Phật
Tự quy y Pháp
Tự quy y Tăng

Khi chúng ta chấp nhận quy y Tam bảo, lòng ta sẽ tràn đầy sự biết ơn, quy kính, dốc toàn tâm, toàn lực đến Phật Pháp Tăng. Chúng ta tràn đầy lòng biết ơn vì phiền não của ta có thể đoạn được trừ, ta nguyện đi trọn con đường Phật dạy; ta cảm ơn những người đã dâng trọn cuộc đời cho Phật pháp.

Quy y Tam bảo là việc làm quan trọng nhất trong đời chúng ta. Tất cả mọi hành động, mọi suy nghĩ của ta sau đó đều dựa vào, đều vì Phật - Pháp - Tăng. Tôi có thể vác bao tảng đá trên vai vì Tam bảo, mà vẫn thấy chúng nhẹ tênh. Nhưng nếu tôi phải làm công việc đó vì ai sai bảo, vì tiền bạc, thì tôi sẽ thấy nặng nề, chán nản biết bao. Ta sẽ sẵn sàng làm tất cả mọi việc vì lý tưởng cao đẹp nhất, giúp con người được giải thoát lên một cõi tốt đẹp hơn, khi chúng ta đã biết cuộc đời này có biết bao phiền não, khổ đau, và ta sẵn sàng buông bỏ chúng.

Tất cả chúng ta, những người đã quy y Tam bảo đều vui mừng được an trú - với tất cả sự hiến dâng, lòng tràn đầy ân sủng, kính trọng -- ở nơi người đã đạt đến đỉnh cao nhất của trí tuệ, và Người đó sẵn lòng chỉ cho chúng ta con đường đi đến đích giống như Người.

Khi chúng ta cảm thấy tràn đời lòng biết ơn, kính trọng, phục nguyện thì lòng ta cũng đều yêu thương. sự thương yêu và kính trọng luôn luôn đi đôi với nhau trên con đường tâm linh. Trong bất cứ mối liên hệ nào, cũng không thể thiếu những tình cảm này; riêng với các vấn đề tâm linh thì tình cảm này lại càng cần thiết hơn vì nó liên quan đến sự hiện hữu của ta. ta cần phải dốc cả tâm trí vào đó. Trí để hiểu biết và tâm để thương yêu, nếu không được như thế thì ta khập khễnh như người đi một chân. Sự hài hoà giữa tâm và trí giúp ta bước đi vững chãi.

Thiếu tinh tấn trong tu tập dễ khiến ta sinh lòng chán nản, hoài nghi: Không biết việc tôi làm có đúng không? Tất cả những việc tôi đang theo đuổi có ý nghĩa gì không? Sao tôi phải hành động khác với mọi người? Lòng hoài nghi phát khởi vì chúng ta không đặt hết tình cảm vào việc thực hành, tu tập của mình. Ta cần vững chãi, dốc hết cả tâm trí vào mọi hành động của mình.

Trong thế giới loài người, chúng ta luôn luôn bị phiền não bởi bao vấn đề, luôn gặp bao chướng ngại, luôn sợ hãi cho chính bản thân và cho người ta thương yêu. Tìm được một nơi an trú, một chốn nương thân trong những hoàn cảnh đó là một điều quý báu, không ai có thể phủ nhận điều đó.

Chúng ta gọi Phật-Pháp-Tăng là Tam bảo (Tiratana) vì ta quý báu những điều đó như những bảo vật. Sự quý báu không ở báo thân của Ðức Phật hay của Tăng đoàn, mà bởi những gì họ nhắc nhở ta nhớ đến, sự tỉnh thức giác ngộ, bao trùm tất cả những ham muốn, ước ao tầm thường của nhân loại.

Biết nương trú nơi Tam bảo không chỉ quý báu mà còn chứng tỏ là chúng ta đã có nghiệp lành. Nhưng nhân lành chỉ kết quả khi chúng ta quy y Tam bảo với tất cả tấm lòng thành, chứ không phải bằng lời nói thôi.

Phần đông chúng ta đều có tình yêu, ta biết cảm giác đó kỳ diệu thế nào. Ðến với Phật - Pháp - Tăng chúng ta cũng có được tình cảm phấn chấn đó, vì tất cả ở trong tim ta. Vì tình thương ta dành cho Phật - Pháp - Tăng, bất cứ điều gì ta làm là cho họ, vì họ cho nên việc gì cũng thành dễ dàng. Tinh tấn trở thành một điều tự nhiên, ta không cần một động lực nào thúc đẩy. Vì ta có phương hướng có niềm tin, tất cả mọi hành động của ta đều xuất phát từ tấm lòng

Ðức Phật nói rằng ta có thể chấm dứt mọi khổ đau, phiền não trong lòng ta, đoạn trừ mọi lo lắng, sợ hãi, bất an. Khi chúng ta đã chọn con đường đi đến giải thoát mọi khổ đau (Dukkha), chúng ta sẽ tìm được sự thanh tịnh để trở thành một bộ phận của Tăng đoàn của Ðức Phật. Nếu chúng ta có thể hiểu việc nương trú, quy y Tam bảo với ý nghĩa như thế, thì việc làm đó mới thực sự mang lại lợi ích cho ta.

Trí tuệ có ba cấp bậc. Thứ nhất là trí tuệ ta có được nhờ nghe, đọc. sau đó khi ta thấm nhuần những điều hiểu biết đó vào tâm, ta biến chúng thành ngọn đuốc soi sáng cho hành động, lời nói, ý nghĩa của ta. Và cuối cùng khi mọi lời nói, việc làm, ý nghĩ của ta đã được thanh tịnh hoá, thì ta sẽ được trí tuệ vô lượng, đỉnh cao nhất của trí tuệ.

Tất cả chúng ta ai cũng đã được nhìn thấy hình tượng của Ðức Phật, nhưng không ai thật sự biết được, thấy được Phật như thế nào vì lúc đó chưa có máy ảnh, chưa có ai vẽ lại hình ảnh của Ngài. Các hình tượng bây giờ chỉ là biểu tượng của người nghệ sĩ về cái đẹp và lòng từ bi.

Chúng ta do đó có thể tạo dựng hình ảnh của Ðức Phật trong tâm mình, tuỳ theo cảm nhận của chúng ta về cái đẹp, về sự toàn vẹn. Ta có thể tạo nên những hình ảnh đẹp nhất về Ðức Phật trong ta.Ðiều đó làm tăng trưởng tình thương của ta cho chính mình, và cũng giúp ta thương yêu người khác, khi nhớ rằng có thể họ cũng mang trong lòng một hình ảnh về Ðức Phật đẹp đẽ như thế. Dầu ngôn ngữ hình dạng họ có khác ta, họ vẫn mang trong tim điều tốt lành.

Nếu chúng ta không thực tập yêu thương những người ta tiếp xúc hàng ngày, ta đã bỏ phí bao niềm vui trong đời. Nếu chúng ta có tâm rộng lượng, cởi mở, ta sẽ luôn cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc.

Hơn thế nữa khi chúng ta dành tình thương của mình cho Tam bảo, ta sẽ không bao giờ cảm thấy thất vọng, khổ đau như với những tình yêu thế tục. Người ta yêu sẽ không quay lưng hay phụ tình ta. Tình thương ta dành cho Tam bảo cũng không phải thứ tình yêu hời hợt, nông cạn, càng kính tin tam bảo, bao chân trời hy vọng càng mở rộng ra trước mắt ta. Khi chúng ta giác ngộ giải thoát, thì tâm chúng ta chính là tâm của Phật - Pháp - Tăng.

Tình cảm ta dành cho Tam bảo luôn bền vững, dài lâu vì không phụ thuộc vào người không thể ở mãi với chúng ta, sẽ không thể luôn hoàn toàn trong mắt ta. Ðó là một mối liên hệ toàn bích, khó thể tìm trong thế giới loài người này hay ở một cõi nào khác. Chúng ta thật may mắn biết bao có được duyên lành quy y Tam bảo.

Chúng ta cần phải biết ơn nghiệp lành đã khiến ta có mặt ở đây, giây phút này. Chánh pháp luôn hỗ trợ cho người hành pháp. Chúng ta được bảo vệ vì hành động của ta hướng thiện, ví ta đã tìm được con đường đưa đến giải thoát. Ðó là sự an trú duy nhất ta có thể tìm được.

Nguyệt san Giác Ngộ


Source: LotusNet Production, http://www.lotuspro.net


[Trở về trang Thư Mục]